THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X

178 112

Vietnamese Pages [448] Year 2006

Report DMCA / Copyright

DOWNLOAD FILE

Polecaj historie

THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ X

Table of contents :
Front Cover
Chủ dẫn của Nhà xuất bản
Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng)
- Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
ương, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Kinh tế Trung ương)
- Tăng nhanh năng lực, hiện đại hoá ngành Bưu chính - Viễn
nghiệp, đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum)
cách chính sách tiền lương
· - Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với bảo
lượng các hoạt động thể dục thể thao, góp phần chăm sóc
đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận)
- Những giải pháp mang tính đột phá nhằm tạo sự chuyển
- Chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển, sớm đưa nước
bảo vệ môi trường ở các trung tâm kinh tế và đô thị lớn
- Tập trung mọi nỗ lực đẩy mạnh phát triển kinh tế, thực
- Chú trọng đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nhân dân,
- Phấn đấu đến năm 2010 đưa Bến Tre thoát khỏi tình trạng
Phát triển có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản
- Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng, bảo
Chuyển giao nhanh và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay và một số
- Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch
- Quảng Ngãi quyết tâm tạo bước phát triển nhảy vọt về công
- Bảo vệ và cải thiện môi trường vì sự phát triển bền vững
uỷ, đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La)
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, đại biểu Đảng bộ
Cần Thơ)
và việc thực hiện chính sách tôn giáo trong 5 năm
Huế, đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế)
hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đại biểu Đảng
- Chăm lo phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh
· Tăng cường đoàn kết các dân tộc để thực hiện thắng lợi sự
· - Một số vấn đề về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong
xã hội trong tình hình hiện
- Phát huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp
Nội chính Trung ương, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Nội
- Động viên người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc,
- Lạng Sơn góp phần xây dựng biên giới hoà bình, ổn định
- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đức cách mạng của cán bộ, đảng viên
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
uỷ Đồng Nai, Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai)
- Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, có chất
Chỉ đạo Trung ương 6 (lần 2), đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ)
· - Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thật sự trong sạch,
(Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp)
- Đổi mới tổ chức bộ máy và chế độ, chính sách đối với cán bộ,
- Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, phát huy vai trò của
nhập
- Các biện pháp cơ bản để thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải
- Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
động Việt Nam, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận
Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ
yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ
Hồ Chí Minh, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận

Citation preview

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

THAM

TẠI ĐẠI

LUẬN

HỘI ĐẠI BIỂU

TOÀN QUỐC LẦN THỨ X

ST NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

I

O

C

IGAN

H

THE

F

LIBRAR

IES

AN

IV UNE TH

F

M

HIG MIC

MICH

O

THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨX

3KV(060)

Mã số :

CTQG - 2006

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

THAM

LUẬN

TẠI ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU

TOÀN QUỐC

LẦN THỨ X

NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA Hà Nội - 2006

GRAD JQ

848 -D6 T43

2006

HAYLYCERAD 500213283 Seasi 4-1407

CHÚ DẪN CỦA NHÀ XUẤT BẢN

Từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 , tại Thủ đô Hà Nội , Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã tiến hành kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới , với chủ đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển .

Đại hội đã thảo luận và thông qua những văn kiện quan trọng: Báo cáo chính trị, Báo cáo phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 , Báo cáo công tác xây dựng Đảng và Điều lệ Đảng bổ sung , sửa đổi. Toàn Đảng, toàn dân , toàn quân ta quyết tâm phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc , nêu cao tinh thần yêu nước , ý chí tự lực tự cường, tranh thủ cơ hội , vượt qua thách thức , ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội , tiến mạnh trên con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ , văn minh ; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa . Nhằm giúp cán bộ , đảng viên và nhân dân có thêm tài liệu nghiên cứu , quán triệt các văn kiện Đại hội X , Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách : Tham luận tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Cuốn sách gồm một số tham luận của các đại biểu dự Đại hội thuộc các đảng bộ , ban , ngành Trung ương và địa phương trong cả nước. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với các đồng chí và đông đảo bạn đọc .

Tháng 5 năm 2006 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA

5

KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN NỀN TẢNG CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI ( Tham luận của đồng chí Lê Hữu Nghĩa , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản , đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

1. Trong hai mươi năm đổi mới , nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , nhờ sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân , toàn quân và sự giúp đỡ, hợp tác của cộng đồng quốc tế , nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử , tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp . Những thành tựu đó do nhiều nguyên nhân , trong đó nguyên nhân quan trọng là Đảng luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới, coi đó là nguyên tắc bất biến của sự nghiệp đổi mới . Ngay từ khi mới ra đời , trong Cương lĩnh đầu tiên của mình , Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong suốt hơn 76 năm qua , Đảng luôn kiên trì mục tiêu đó .

7

Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam . Đường lối đó không chỉ phù hợp trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ trước đây khi nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu , mà còn là đường lối chỉ đạo trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa khi nhiệm vụ đổi mới và kiến quốc nổi lên hàng đầu . Độc lập dân tộc là tiền đề, điều kiện của chủ nghĩa xã hội , còn chủ nghĩa xã hội là bước phát triển tất yếu , là điều kiện để củng cố và bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc . Hồ Chí Minh khẳng định rằng : " Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn " , " có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày no ấm thêm , Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm " 2. Từ thực tiễn cách mạng thế giới và từ kinh nghiệm của bản thân cách mạng Việt Nam , Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng : chỉ có con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , Tổ quốc ta mới được độc lập , tự do, nhân dân ta mới trở thành người làm chủ, tự quyết định con đường phát triển của mình . Trong bối cảnh thế giới phức tạp của những năm 80 , 90 của thế kỷ XX , khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ , Đảng ta vẫn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa . Vì đó là con đường hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam để có một nước Việt Nam giàu mạnh , công bằng , dân chủ , văn minh . Đối với Đảng ta , đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức và xây dựng có hiệu quả hơn ; đổi mới không phải là đổi màu ; đổi mới có nguyên tắc mà nguyên tắc hàng đầu là bảo đảm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đất nước . Nếu Đảng ta không kiên định con

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia , Hà Nội , 1995, t.12 , tr. 305. 2. Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd , t.9 , tr.173 .

8

đường xã hội chủ nghĩa thì không thể có công cuộc đổi mới vừa giữ vững những thành quả cách mạng và mục tiêu cách mạng , vừa kiên quyết , dũng cảm từ bỏ những phương pháp sai lầm , mô hình sai lầm , sáng tạo phương pháp mới , mô hình mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả hơn . Sự nghiệp đổi mới không chỉ đem lại thành tựu mới mà còn đem lại phương pháp mới , cách làm mới để xây dựng chủ nghĩa xã hội . Việc kiên định con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Đảng ta không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải có trí tuệ , dám đổi mới và biết đổi mới. Đây không phải là một công việc giản đơn , dễ dàng . Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài , vô cùng khó khăn , gian khổ bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp , lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề , luôn bị các thế lực thù địch phá hoại . Đặc biệt , sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ , chưa có tiền lệ trong lịch sử , lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào nên lại càng khó khăn . Đây là quá trình vừa làm vừa học , vừa làm vừa tổng kết , vừa rút kinh nghiệm , khái quát thành lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý . Chính trong quá trình đó , Đảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ngày càng phù hợp hơn , từng bước khắc phục những quan niệm giáo điều , đơn giản , ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội . Trong những năm đổi mới , thể hiện tập trung nhận thức mới của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII của Đảng ( năm

1991 ) thông qua . Cương lĩnh đó đã khái quát

những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội , vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc , có tính đến những đặc điểm của thời đại . Từ đó đến nay , qua tổng kết 20 năm đổi

9

mới, Đảng ta đã có sự bổ sung, phát triển một số điểm trong nhận thức về mục tiêu, bản chất , đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nước ta và chắc chắn chúng ta sẽ phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận , tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức đó . Điều đó cũng là đương nhiên , phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức . Để có đường lối đổi mới đúng đắn , Đảng phải nắm vững , vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , coi đó là cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình thực tế , để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới . Từ khi ra đời đến nay , Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu , vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam . Qua nghiên cứu lý luận và trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới, Người đã rút ra kết luận rằng , ngày nay học thuyết nhiều , chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất , chắc chắn nhất , cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin . Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác - Lênin là " cái cốt của Đảng" , " cái gốc của Đảng" , đến Đại hội III ( năm 1960) , Đảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng . Đặc biệt , đến Đại hội VII (năm 1991 ) , Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Việc chính thức đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Đảng đánh dấu một bước tiến mới , một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng ta . Trong những năm đổi mới , Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn , đúng đắn hơn đối với chủ nghĩa Mác - Lênin , đối với thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mácxít trên nhiều vấn đề . Đối với chủ nghĩa Mác - Lênin , chúng ta ngày càng xác định rõ

10

những luận điểm gì trước đây đúng , bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng ; những luận điểm gì trước đây đúng nhưng bây giờ không còn phù hợp do thực tiễn đã thay đổi ; những luận điểm gì vốn trước đây đã không phù hợp ; những luận điểm gì vốn đúng nhưng bị nhận thức sai , làm sai ; những luận điểm gì mới cần được bổ sung vào lý luận qua tổng kết thực tiễn mới . Với tinh thần ấy , trong những năm đổi mới , Đảng ta đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn đề như vấn đề mục tiêu của chủ nghĩa xã hội , vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất , vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , v.v .. Nhờ đó , tư duy lý luận của Đảng ngày càng sâu sắc hơn , đồng thời có sự vận dụng , phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam , khắc phục bệnh giáo điều , bệnh chủ quan duy ý chí trong nhận thức và hành động . Trong những năm đổi mới , Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn , sâu sắc hơn vai trò , vị trí và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh , đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm nghiên cứu , học tập và làm theo tư tưởng của Người. Trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta , tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin là một thể thống nhất , có mối liên hệ nội tại cả về lịch sử và lôgíc . Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Đảng, nhất là trong 20 năm đổi mới , đã khẳng định , chứng minh giá trị , sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Thắng lợi của công cuộc đổi mới cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam . Trung thành và vận dụng , phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh ; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những điều kiện bảo đảm cho thắng lợi sắp tới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới .

11

2. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới , Đảng ta đã kiên quyết đấu tranh chống những quan điểm sai trái , thù địch của các thế lực phản động , phê phán bệnh bảo thủ , giáo điều và cơ hội , những sai lầm tả khuynh và hữu khuynh . Gần đây , lợi dụng việc góp ý kiến vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội , một số ý kiến cực đoan với động cơ xấu đòi xoá bỏ chủ nghĩa Mác Lênin , xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa , xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng , đòi "đa nguyên đa đảng " ... Một số ý kiến cố tình khai thác , khoét sâu vào những yếu kém , khuyết điểm của chúng ta để xuyên tạc , vu cáo , bôi nhọ Đảng và Nhà nước ta , họ cố tình quy kết những yếu kém , khuyết điểm đó là do chủ nghĩa Mác - Lênin , do Đảng Cộng sản , do định hướng xã hội chủ nghĩa gây ra . Những ý kiến bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa , phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa thường cho rằng " đi vào chủ nghĩa xã hội là đi vào vết xe đổ của Liên Xô" ; " đi lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng , viển

vông " , " chỉ có kinh tế thị trường chứ làm gì có

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa " ; "định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì đó còn mù mờ" . Những ý kiến này thường đem đối lập " định hướng xã hội chủ nghĩa " với " đổi mới" , với " phát triển " , cho rằng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cản trở sự phát triển , làm cho đất nước ta " lạc điệu trong tiến trình phát triển của thế giới" , v.v .. Thực tiễn lịch sử Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua đã cho thấy , con đường kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan của dân tộc , là chân lý lớn của thời đại , là động lực xuyên suốt của cách mạng Việt Nam . Sự lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn của Đảng , Bác Hồ và cũng chính là sự lựa chọn của nhân dân , của lịch sử . Sự ra đời của Đảng ta năm 1930 , thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà , thắng lợi của cuộc

12

kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954 , thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ , cứu nước năm 1975 , thắng lợi của công cuộc đổi mới từ 1986 đến nay là những mốc son chói lọi trên con đường đó của sự lựa chọn lịch sử . Trong những năm đổi mới , nhờ kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nên công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn , có ý nghĩa lịch sử mà thế giới phải khâm phục . Chúng ta vừa giữ vững ổn định chính trị - xã hội , vừa phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ tương đối nhanh so với thế giới ; vừa giữ vững nền độc lập dân tộc vừa chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế , mở rộng hợp tác , giao lưu quốc tế . Ngày nay , Việt Nam đã là bạn , là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế . Như vậy , không phải định hướng xã hội chủ nghĩa cản trở đổi mới , phát triển mà trái lại nó đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ , toàn diện và đồng bộ hơn , đòi hỏi phát triển nhanh và bền vững hơn . Nhưng sự phát triển đó phải nhằm mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , phát triển vì con người , hướng về con người - mục tiêu cao nhất của phát triển . Còn ý kiến nói rằng : " định hướng xã hội chủ nghĩa là mù mờ" , thì ý kiến đó thật sự không khách quan , cố tình nhắm mắt trước thực tế. So với cách đây 20 năm , nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã rõ hơn nhiều , ngày càng sáng tỏ hơn (tất nhiên , bên cạnh những điểm đã rõ , vẫn còn những điểm chưa rõ mà chúng ta phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa ) . Ngày nay , nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa tức là hướng đến xây dựng một xã hội " dân giàu , nước mạnh , công bằng , dân chủ , văn minh " , do nhân dân làm chủ ; giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất , thực hiện phát triển nhanh và bền vững ; phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu , nhiều thành phần kinh tế , trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo , kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

13

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân . Định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , phát huy quyền làm chủ của nhân dân , xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân , do nhân dân , vì nhân dân , nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước . Định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đòi hỏi phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá , xem văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội ; kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển ; hoàn thiện chế độ phân phối theo hướng lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu , đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội . Định hướng xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là thực hiện chủ nghĩa bình quân mà phải khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo , tạo bình đẳng về cơ hội phát triển cho mọi người , tạo điều kiện cho người nghèo nâng cao cuộc sống của mình , không chấp nhận làm giàu phi pháp , bất chính bằng tham nhũng , tiêu cực ... , khống chế phân hoá 2 đầu , coi trọng các chính sách xã hội , an sinh xã hội , v.v .. Toàn bộ những thành tựu của đất nước qua 20 năm đổi mới không thể có được và không thể giữ được nếu không có sự lãnh đạo của Đảng . Sự lãnh đạo của Đảng và quyền lực nhà nước ở trong tay nhân dân là tiền đề chính trị , là điều kiện tiên quyết để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Vì vậy , các thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn tập trung công kích vào vai trò lãnh đạo của Đảng . Việc chúng tuyên truyền quan điểm " dân chủ , đa nguyên đa đảng " chỉ là sự chuẩn bị về tư tưởng hòng mở đường cho việc thay đổi chế độ chính trị , chấm dứt định hướng xã hội chủ nghĩa theo kịch bản mà các thế lực chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mong muốn . Bài học về đa nguyên đa đảng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ

14

nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn còn nóng hổi, nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác. Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa , giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, cần kiên định và bảo vệ , phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái , phản động muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin với lập luận cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin là "ngoại lai" , "ngoại nhập " , " xa lạ với Việt Nam " , đã lỗi thời vì chỉ thích hợp với nền văn minh cơ khí ở thế kỷ XIX chứ không thích hợp với nền văn minh tin học , với kinh tế tri thức trong thế kỷ XXI, v.v .. Đồng thời , phải kiên quyết khắc phục bệnh giáo điều (cả giáo điều cũ và giáo điều mới) , nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận , tổng kết thực tiễn , thường xuyên đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu lý luận , cách dạy và cách học chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thiết thực , hiệu quả, gắn với thực tiễn . Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Đảng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , giải đáp được những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra , tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta trong bối cảnh mới của thời đại ngày nay .

15

NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Sáu, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

Từ cuối thế kỷ XX , lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới đã đứng trước những thách thức nghiêm trọng , trong đó có sự biến động sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ ; cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội hiện thực ; sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu ... Công cuộc đổi mới ở nước ta , được Đại hội VI của Đảng khởi xướng năm 1986 , bên cạnh nhiệm vụ nóng bỏng trước mắt là khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70 , còn có nhiệm vụ cơ bản và lâu dài hơn : đó là xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Để thực hiện nhiệm vụ vừa phức tạp , vừa hệ trọng đó , Đảng và nhân dân ta kiên trì đứng vững trên lập trường , quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin ; đồng thời tích cực phát huy tấm gương Hồ Chí Minh trong vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác Lênin phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam . Chính Mác và Ăngghen ,

16

hơn ai hết đã nhiều lần cảnh báo rằng , chủ nghĩa xã hội là một phong trào hiện thực , chứ không phải một khuôn mẫu lý luận bắt hiện thực phải tuân theo . Cách đây hơn 150 năm , trên cơ sở phân tích sự phủ định biện chứng của chủ nghĩa tư bản , các ông đã nêu lên những nhận thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội mà theo chúng tôi , có giá trị và sức sống bền vững . Đó là quan điểm về chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã hội của giải phóng và phát triển , của dân chủ và công bằng xã hội ; một chế độ do nhân dân lao động làm chủ , không còn bóc lột , áp bức . Những quan điểm của Mác - Ăngghen về chủ nghĩa xã hội , tuy là nền móng rất quan trọng đối với nhận thức của chúng ta về chủ nghĩa xã hội nhưng đó mới chỉ là những khái quát chung nhất , nhất thiết phải được cụ thể hoá " thành xương, thành thịt " trên từng mảnh đất hiện thực . Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã có công lao to lớn : nêu lên hàng loạt nhận thức sinh động về chủ nghĩa xã hội . Theo Người , xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng một chế độ xã hội sao cho đời sống vật chất ngày càng tăng , đời sống tinh thần ngày càng tốt , xã hội ngày càng văn minh , tiến bộ , là làm cho dân có ăn , có mặc , có nhà ở , ai ai cũng được học hành tiến bộ , được chăm sóc sức khoẻ , được tự do đi lại , được hưởng quyền dân chủ , có đời sống tươi vui , hạnh phúc , đấy là mục đích của mọi chính sách của Đảng và Chính phủ . Trong Di chúc , Người nói rõ điều mong muốn cuối cùng , cũng là hoài bão , khát vọng cả cuộc đời mà Người đã tranh đấu không mệt mỏi cho dân , cho nước , ấy là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình , độc lập , thống nhất , dân chủ và giàu mạnh . Đây chính là tính hướng đích sâu xa chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam . Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là ở đó , là làm tất cả những gì có ích , có lợi cho cuộc sống của nhân dân , chăm lo phát triển sức dân , bồi dưỡng sức dân , đi liền với tiết kiệm sức dân . Giải phóng dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân đã từng là phát

17

kiến lý luận đầy bản lĩnh sáng tạo của Hồ Chí Minh . Thống nhất sức mạnh giai cấp với sức mạnh dân tộc và thời đại, gắn quyện mật thiết mục tiêu - bản chất - động lực của chủ nghĩa xã hội ở sức mạnh của dân chủ và quyền làm chủ của dân , ở tự do, công bằng và bình đẳng trong sự phát triển hài hoà giữa cá nhân và xã hội, đó là chiều sâu trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội . Qua 20 năm đổi mới , nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn . Cho đến nay , Đảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng , góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội . Nói tới nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , mỗi chúng ta đều thấy hai câu hỏi lớn đặt ra . Đó là : chủ nghĩa xã hội là gì ? Và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào ? Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII , năm 1991 , đã nêu ra những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang từng bước xây dựng và xác định những phương hướng chủ yếu đưa nước ta từng bước quá độ tới chủ nghĩa xã hội . Cũng có thể xem đó là con đường đi tới chủ nghĩa xã hội , là mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong điều kiện bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa .

1. Xem : Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới ( 1986-2006) , Nxb . Chính trị quốc gia , Hà Nội , 2005 , tr.133 .

18

Từng bước một , qua thực tiễn đổi mới kinh tế , nhất là với những nhận thức mới về tình hình thế giới trong bối cảnh quốc tế và xu thế toàn cầu hoá hiện nay , Đảng ta đã thấy rõ : yếu tố khách quan của việc xây dựng nền kinh tế thị trường và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Từ cơ chế thị trường tới xây dựng thể chế kinh tế thị trường và chủ trương phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước tiến rất căn bản trong nhận thức lý luận của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội . Ở đây , cần thấy rằng , cái mới trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đạt được là ở chỗ , quan niệm về chủ nghĩa xã hội đã từ những nhận thức chung , có phần còn trừu tượng và có khuynh hướng lý tưởng hoá hiện thực, thoát ly thực tiễn , đến chỗ hình dung chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể , thiết thực, đặc biệt là đặt đúng vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất, nhận thức rõ , muốn đi tới chủ nghĩa xã hội trước hết phải tập trung phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới theo đúng quy luật khách quan . Kinh tế thị trường, mở cửa , hội nhập , thực hiện hợp tác song phương và đa phương , kết hợp nội lực với ngoại lực để phát triển ... , những vấn đề ấy đã được xác định trong quan niệm mới hiện nay về chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Chúng ta có thể nhận thấy mối liên hệ mật thiết giữa những thành tựu của 20 năm đổi mới , xét về mặt thực tiễn , với những nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội xét trên phương diện lý luận . Từ thực tiễn đổi mới , những khái quát lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã không ngừng được bổ sung , hoàn thiện . Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội được xác định tại Đại hội VI là dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh đến Đại hội VIII được bổ sung: dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , văn minh và Đại hội IX hoàn chỉnh thêm : " Dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng ,

19

dân chủ , văn minh " . Có thể nói , tư duy lý luận của Đảng về dân chủ đã có những bước phát triển quan trọng từ nhận thức dân chủ hoá và đổi mới hệ thống chính trị ở Đại hội VI và Đại hội VII đến Quy chế dân chủ ở cơ sở trong nhiệm kỳ Đại hội VIII và đổi mới hệ thống chính trị cơ sở trong nhiệm kỳ của Đại hội IX . Chính là nhờ những nhận thức lý luận mới được hình thành và phát triển trong thực tiễn và tổng kết thực tiễn mà giờ đây chúng ta có thể nói : Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng là một xã hội nhằm đi tới " Dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh " . Có thể xem đây là hình dung tổng quát về bản chất , mục tiêu , bao hàm trong đó cả hệ thống giá trị , chuẩn mực , nguyên tắc , cả động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội . Một quan điểm

như thế về chủ nghĩa xã hội đã được thể hiện

trong tổng kết lý luận - thực tiễn 20 năm đổi mới , trong Báo cáo chính trị trình Đại hội X , là kết quả tìm tòi , nghiền ngẫm từ thực tiễn của Đảng và nhân dân ta . Nhờ bám sát thực tiễn , xuất phát từ thực tiễn và trở về với thực tiễn mà lý luận về chủ nghĩa xã hội của Đảng có được hơi thở , sức sống thực tiễn , phù hợp với cuộc sống và lợi ích , nhu cầu , nguyện vọng thiết thân của quần chúng . Cũng cần phải nhấn mạnh rằng , thành tựu lý luận mà Đảng ta và nhân dân ta đạt được qua thực tiễn 20 năm đổi mới tập trung nổi bật ở quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân , vì dân ; nền dân chủ hướng tới đông đảo quần chúng nhân dân , bảo đảm

dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ;

xây dựng Đảng Cộng sản cầm

quyền trong sạch, vững mạnh, coi

đó là khâu then chốt; đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực mạnh mẽ và quyết định thành bại của công cuộc đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ...

20

Sự xác định đúng đắn những vấn đề trên đây cho thấy , lý luận , tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội thấm nhuần tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , đã đóng vai trò quan trọng đối với thực tiễn đổi mới , làm nên những thành tựu của đổi mới . Tuy nhiên , còn không ít những vấn đề lý luận , cả lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , liên quan tới cơ cấu kinh tế , chế độ sở hữu , cơ chế quản lý ... cũng như lý luận về chính trị, về Đảng Cộng sản cầm quyền , nhà nước pháp quyền , hệ thống chính trị , xã hội dân sự ... chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ . Sự phát triển của thực tiễn và sự nâng cao không ngừng năng lực tư duy lý luận của Đảng , trình độ nhận thức của xã hội , nhất là của giới lý luận sẽ từng bước góp phần làm sáng tỏ và đem lại lời giải đầy đủ , thấu đáo hơn những vấn đề đó . Trên tinh thần của đổi mới , nhìn thẳng vào sự thật , nói rõ sự thật , chúng ta cần thẳng thắn nhận rõ rằng , lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội như hiện nay của chúng ta vẫn chưa ngang tầm với những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng , của yêu cầu phát triển

và hiện đại hoá xã hội . Thành tựu của đổi

mới còn có thể to lớn hơn nữa , nếu lý luận đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa có những bước tiến đột phá, đủ sức tạo ra một xung lực tinh thần thúc đẩy thực tiễn phát triển . Thực tiễn và kinh nghiệm lịch sử của thế giới cũng như của nước ta đã cho thấy , những biến

đổi mang tầm vóc cách

mạng

trong đời sống xã hội bao giờ cũng dựa trên một tiền đề : cách mạng hoá tư duy và tư tưởng , ý thức và nhận thức lý luận . Đổi mới , phát triển và hiện đại hoá xã hội , trước hết đòi hỏi Đảng đi tiên phong trong đổi mới , bằng cách đổi mới chính bản thân mình để thúc đẩy đổi mới xã hội , phát triển năng lực trí tuệ của Đảng bằng cách thu hút tốt nhất trí tuệ của dân tộc mình và tiếp thu được tinh hoa trí tuệ của thời đại , của văn hoá nhân loại , hiện đại hoá lý luận , làm

21

cho lý luận đủ sức đóng vai trò dẫn đường cho sự phát triển , hiện đại hoá xã hội . Đại hội X của Đảng đánh dấu một bước ngoặt , một thời kỳ phát triển mới của đổi mới ở nước ta . Để tiếp tục đổi mới tư duy , nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam , chúng tôi xin đề xuất một số vấn đề về nghiên cứu và thực hành lý luận trong thời gian tới mà Đảng ta cần đặc biệt quan tâm . Trước hết, cần đi sâu nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin một cách cơ bản và hệ thống nhằm tiến tới nhận thức khoa học và hiện đại trên những vấn đề sau đây : - Làm sáng tỏ những giá trị đúng đắn , bền vững , cần thiết cho thế giới quan , ý thức hệ của chúng ta . - Đánh giá những luận điểm của các nhà kinh điển vốn đúng đắn , chính xác , hợp lý ở thời kỳ lịch sử trước đây khi các ông đề xướng nhưng ngày nay thực tiễn biến đổi, đã không còn phù hợp nữa , đòi hỏi phải có những nhận thức , những phát triển mới .

·

Cần nghiên cứu với tinh thần phê phán để thấy có những luận

điểm mà các nhà kinh điển nêu ra nhưng ngay từ đầu đã không đúng và chính các nhà kinh điển cũng đã có điều chỉnh mà ngày nay chúng ta cần phải nhận rõ , cần tự giải phóng tư duy và tư tưởng của chính mình , để phát triển mới chứ không lệ thuộc . - Nghiên cứu với tinh thần tự phê phán và tự đổi mới để thấy cho rõ nhiều luận điểm , tư tưởng của các nhà kinh điển đã từng bị hiểu sai , làm sai do giáo điều , do hạn chế nhận thức dẫn tới . Bằng sức mạnh tư duy khoa học phải vượt qua những hạn chế đó , phải làm chính xác những tư tưởng đích thực là của Mác - Lênin . Cũng từ đó , nhận rõ những sự xuyên tạc Mác , cắt xén Mác - Lênin , những mưu toan phủ nhận Mác - Lênin có dụng ý . Sự phê phán này phải thực sự là những nghiên cứu khoa học khách quan , nghiêm túc

22

nhất , góp phần củng cố niềm tin khoa học với chủ nghĩa Mác Lênin và chủ nghĩa xã hội .

· Nghiên cứu những thành tựu khoa học , lý luận mà thế giới đương đại đã và đang đạt được , từ đó thấy rõ những gì cần phải bổ sung, làm phong phú và sâu sắc thêm kho tàng di sản kinh điển mácxít . Tiếp theo, nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần thể hiện chân thật và sinh động việc thực hành nhất quán , sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong cuộc sống , từ trong Đảng, Nhà nước đến các tổ chức , đoàn thể của hệ thống chính trị , trong đời sống của nhân dân và trong toàn xã hội . Cuối cùng , khâu quyết định đối với việc chúng ta có tiếp tục xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hay không là công tác nắm bắt kịp thời , tổng kết chính xác thực tiễn kinh tế - xã hội , chính trị , khoa học - kỹ thuật , văn hoá , tinh thần của thời đại và cuộc sống sôi động của đất nước . Không tiến hành có hiệu quả nhiệm vụ tổng kết thực tiễn , Đảng và nhân dân ta không thể góp phần tạo ra cho lý luận Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội sinh lực và xung lực trong thời đại mới ; càng không thể khai mở ngày càng sáng tỏ con đường Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội . Tiếp tục xây dựng nhận thức về chủ nghĩa xã hội và làm sáng tỏ hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chính là bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển đất nước và bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới . Nhìn từ vai trò , vị trí này , vấn đề đang bàn trở nên thật sự sống còn và cao cả . Đây vừa là cơ hội , vừa là thách thức đối với toàn Đảng, toàn dân , trong đó có đội ngũ những người làm công tác lý luận . Chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng , sẽ tiếp tục tiến lên phía trước trong tư duy và thực hành xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi chúng ta có sự lãnh đạo của

23

Đảng quang vinh đã từng dẫn dắt dân tộc đến nhiều kỳ tích lịch sử , đã khởi xướng và lãnh đạo thành công công cuộc đổi mới 20 năm qua ; có nguồn thực tiễn rất năng động và sáng tạo của cả 80 triệu nhân dân Việt Nam đã làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử qua hai thập kỷ đổi mới . Với những nhân tố quý báu này , tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sẽ biến thách thức thành cơ hội , vươn lên ngang tầm yêu cầu , nhiệm vụ của Đảng, của dân tộc và phù hợp với xu thế thời đại .

24

KIÊN ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ( Tham luận của đồng chí Đào Duy Quát , Phó Trưởng ban Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

Một trong những bài học lớn Đảng ta đã đúc rút ra từ thực tiễn 76 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam và 20 năm lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đó là : Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Trong điều kiện hiện nay , khi chế độ xã hội chủ nghĩa bị tan rã ở Liên Xô và Đông Âu , khi các thế lực thù địch đang điên cuồng tấn công phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , vì sao Đảng ta tiếp tục khẳng định phải kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ? Đến Đại hội VII ( 1991 ) , tư duy lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển quan trọng , thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Đảng ta khẳng định : Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam .

25

Những căn cứ chủ yếu của sự khẳng định này là gì ? 1. Xin được bắt đầu từ luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh : Muốn có cách mạng phải có Đảng cách mạng. Đảng có vững cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy . Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt . Trong Đảng ai cũng phải hiểu , phải theo chủ nghĩa ấy . Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn , tàu không có kim chỉ nam . Trong thời đại hiện nay , chủ nghĩa nhiều , học thuyết lắm nhưng chủ nghĩa chân chính nhất , chắc chắn nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin . Không phải ngẫu nhiên , ngay sau sự kiện chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tại cuộc Hội thảo khoa học về Mác tại Pari , các nhà tư tưởng lớn của thế giới vẫn khẳng định : Tư tưởng của Mác đã làm nên lịch sử thế kỷ XX . Tư tưởng của Mác vẫn là tư tưởng của thế kỷ XXI , nhân loại không có tương lai nếu không có tư tưởng của Mác . Thực tiễn lịch sử trên 150 năm qua đã khẳng định , chủ nghĩa · Mác - Lênin là đỉnh cao trí tuệ của nhân loại . Chủ nghĩa Mác Lênin đã cung cấp cho chúng ta một thế giới quan khoa học và cách mạng . Với thế giới quan khoa học và cách mạng này , chúng ta đã khám phá ra những quy luật phổ biến về sự vận động và phát triển của tự nhiên , xã hội và tư duy con người ; quan hệ và vị trí của con người trong thế giới đó . Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết duy nhất từ trước đến nay đã nêu rõ mục tiêu , chỉ rõ lực lượng , điều kiện và phương thức đấu tranh giải phóng triệt để giai cấp vô sản , nhân dân lao động và các dân tộc thoát khỏi mọi sự tha hoá , có cuộc sống tự do , ấm no , hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện , thực hiện được vai trò làm chủ tự nhiên , làm chủ xã hội và làm chủ cuộc sống của bản thân mình . Chỉ có trong chủ nghĩa Mác - Lênin mới có sự thống nhất cao độ giữa lý tưởng chính

26

trị cao cả với lý tưởng đạo đức , nhân văn và nhân đạo chân chính cùng khả năng thực hiện lý tưởng đó . 2. Trên 150 năm qua , lý tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thức tỉnh và lôi cuốn hàng triệu triệu người trên thế giới vào cuộc đấu tranh giải phóng triệt để giai cấp , xã hội và con người . Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại : thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội . Sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực trong 70 năm của thế kỷ XX đã có những cống hiến vĩ đại cho nhân loại . Đó là : giải phóng hơn 1 tỷ người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công; có cuộc sống tự do, ấm no , hạnh phúc , đánh bại chủ nghĩa phát xít , cứu nhân loại thoát khỏi bọn diệt chủng và đối mặt với những ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực , buộc chủ nghĩa tư bản phải có những điều chỉnh . Nếu một số quyền dân sinh , dân chủ nào đó có được ở các nước tư bản cũng chính là đóng góp của chủ nghĩa xã hội hiện thực . Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu không phải do chủ nghĩa Mác - Lênin lỗi thời .

Nguyên nhân sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô , Đông Âu chính là do những người cầm đầu các Đảng này đã đi theo con đường phản bội chủ nghĩa Mác - Lênin , họ thực hiện chủ nghĩa cơ hội, giáo điều , bảo thủ và bị sự tấn công điên cuồng của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế thông qua chiến lược " diễn biến hoà bình " và bạo loạn lật đổ rất thâm độc và nguy hiểm . Ngày nay , trước sự thăng trầm của lịch sử hơn 100 năm qua , những người cộng sản chân chính , những nhà khoa học trung thực , những lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới vẫn khẳng định những giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin , vẫn coi chủ nghĩa Mác - Lênin là ngọn cờ tư tưởng của thế kỷ XXI và là tương lai của nhân loại .

27

3. Vai trò quan trọng đặc biệt của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam . Năm 1858 , thực dân Pháp nổ súng xâm lược và đặt ách nô dịch lên đất nước ta . Phát huy truyền thống quật cường dân tộc , từ 1858 đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX , các tầng lớp nhân dân liên tiếp vùng dậy đấu tranh chống Pháp , cứu nước . Tất cả các phong trào cứu nước từ Cần Vương đến hàng trăm cuộc khởi nghĩa , rồi phong trào Duy Tân , Đông Du ... đều tràn đầy lòng yêu nước , đức hy sinh cao thượng, nhưng tất cả đều thất bại . Cách mạng Việt Nam thời kỳ này chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước . Năm 1911 , Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước . Với lòng yêu nước nồng nàn , với thiên tài trí tuệ , thông qua khảo sát cuộc đấu tranh của nhiều dân tộc và nhất là trực tiếp thông qua hoạt động của nhiều tổ chức cách mạng quốc tế đã dẫn đến cuộc gặp gỡ kỳ diệu , Nguyễn Ái Quốc · Hồ Chí Minh gặp Lênin qua tác phẩm của Người : Luận cương về các dân tộc và thuộc địa . Sau cuộc gặp gỡ kỳ diệu này , Bác Hồ đã tiếp nhận được bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin . Từ đây , Bác đã tìm ra con đường duy nhất đúng đắn để cứu nước , cứu dân . Quá trình tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để lãnh đạo cách mạng Việt Nam là quá trình chủ yếu , nguồn gốc chủ yếu hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh - đó là hệ thống các quan điểm chính trị sâu sắc , toàn diện về cách mạng Việt Nam . Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành được những thắng lợi vĩ đại . Cách mạng Tháng Tám thành công, tiến hành thắng lợi 2 cuộc kháng chiến vĩ đại đánh thắng 2 đế quốc to , giải phóng miền Nam , thống nhất Tổ quốc , đưa cả nước vào kỷ nguyên xây dựng chủ nghĩa xã hội và tiến hành thắng lợi sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ

28

nghĩa . Những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam 76 năm qua đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Bác Hồ và của Đảng ta . 76 năm qua , Đảng ta đã kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Ngày nay , đất nước ta đã bước vào thời kỳ mới với những nhiệm vụ lịch sử : nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, tiến hành đồng bộ sự nghiệp đổi mới , đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá , đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng kém phát triển và đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại , vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội . Chỉ có kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mới bảo đảm cho Đảng ta có lập trường vững chắc , có phương pháp cách mạng khoa học để xử lý đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh , đưa ra đường lối , chiến lược và chính sách đúng đắn để lãnh đạo nhân dân ta nắm lấy thời cơ , vận hội , vượt qua thách thức , tiến tới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ mới . 4. Trong điều kiện hiện nay , chỉ có kiên định chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mới góp phần củng cố vững chắc sự thống nhất ý chí trong toàn Đảng , sự đồng thuận trong xã hội ; mới có cơ sở và điều kiện chính trị vững chắc để đẩy lùi nguy cơ suy thoái về chính trị tư tưởng trong một bộ phận cán bộ , đảng viên . 5. Cần phải làm gì để kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh . - Trước hết , phải thực hiện nghiêm túc , có hiệu quả lời dạy của Bác : Ai cũng phải hiểu và làm theo chủ nghĩa Mác - Lênin . Muốn mọi cán bộ , đảng viên , hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải tăng cường và đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường chính trị , trong các trường đại học

29

và cao đẳng cũng như đổi mới chương trình , nội dung giáo dục công dân trong các trường phổ thông.

Trên cơ sở bộ giáo trình chuẩn ( Triết học Mác - Lênin , Chủ nghĩa xã hội khoa học , Tư tưởng Hồ Chí Minh , Lịch sử Đảng ) để biên soạn các bộ giáo trình phù hợp với từng đối tượng. Phải đổi mới và tăng cường bồi dưỡng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị , bảo đảm đội ngũ này thực sự kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , nắm vững bản chất cách mạng, khoa học , hiểu sâu sắc phương pháp luận Mác - Lênin , nắm vững sự vận dụng sáng tạo của Bác Hồ và Đảng ta vào thực tiễn cách mạng Việt Nam , có tâm huyết , có nghệ thuật truyền đạt, giảng dạy chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự có hiệu quả . - Phải có quy định chặt chẽ tiêu chuẩn đảng viên , cán bộ các cấp về việc học tập chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh . Phải chỉ đạo để các phương tiện thông tin đại chúng có nhiều hình thức truyền bá sâu rộng chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn xã hội . · Cần xác định rõ tiêu chí của việc kiên định chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cán bộ, đảng viên , đó là phải hiểu và nắm vững bản chất cách mạng, khoa học và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tập trung ở những vấn đề cơ bản sau : + Nhận thức rõ mục tiêu lý tưởng , con đường , lực lượng cách mạng , phương pháp cách mạng để giải phóng giai cấp , giải phóng xã hội và giải phóng con người . + Nắm vững cả ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin là triết học Mác - Lênin , kinh tế - chính trị học Mác - Lênin , chủ nghĩa xã hội khoa học và quan trọng nhất là thấu triệt phép biện chứng duy vật mà từ bản chất của nó là "có tính phê phán và cách mạng" . Phép biện chứng duy vật là linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , là hạt nhân thế giới quan

30

khoa học và cách mạng để từ đó có phương pháp đúng đắn khi xem xét giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra . Mỗi sự vật , hiện tượng phải được xem xét theo quan điểm toàn diện , lịch sử , cụ the và phát triển . + Phải nắm chắc chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin mà cốt lõi là học thuyết hình thái kinh tế - xã hội , đó là cơ sở khoa học để củng cố niềm tin vào quy luật diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội . Từ đó kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội . + Phải nắm chắc học thuyết kinh tế của Mác mà hạt nhân là học thuyết giá trị thặng dư để không mơ hồ bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản , dù hiện nay được biểu hiện tinh vi hơn và có vẻ "văn minh " hơn . + Phải nắm chắc học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân . Không được mơ hồ dao động trước những quan điểm lý luận nhằm công kích bác bỏ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản . Đồng thời , tôn trọng và đề cao vai trò của trí thức nhưng không lầm lẫn vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân . + Nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin là phải thấu hiểu khả năng tinh thần tự phê phán và tự điều chỉnh , bổ sung để phát triển . Do đó , kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải gắn chặt với các điều kiện lịch sử mới để vận dụng sáng tạo , bổ sung phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh . + Nắm vững và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi phải nắm vững và kiên định hệ thống nguyên lý lý luận cơ bản còn nguyên giá trị và phương pháp luận mácxít . Đây chính là sự thống nhất biện chứng giữa thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin . Không được phép coi chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ còn là phương pháp toàn nguyên lý và lỗi thời .

31

+ Khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh , phải nắm vững và kiên định cả ba nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh , đó là chủ nghĩa Mác - Lênin , truyền thống tư tưởng tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá thế giới . Thấu triệt tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ nắm vững các tác phẩm của Người mà còn hiểu sâu sắc cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú của Người . Nắm vững tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm vững những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Người , đó là tư tưởng của Người về mục tiêu , lý tưởng của cách mạng Việt Nam , dân tộc Việt Nam trong thời đại mới : Độc lập cho dân tộc , ấm no , hạnh phúc cho nhân dân . Đó là con đường thực hiện mục tiêu , lý tưởng : con đường độc lập dân tộc gắn chặt với chủ nghĩa xã hội . Đó là hệ thống các quan điểm tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng cách mạng như : Tư tưởng của Người về Đảng và xây dựng Đảng ; về nhà nước và xây dựng nhà nước của dân , do dân , vì dân ; về Mặt trận dân tộc thống nhất và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ; về lực lượng vũ trang nhân dân ; về xây dựng tổ chức công đoàn , nông hội , phụ nữ , thanh niên ; tư tưởng của Người về phương pháp cách mạng và tư tưởng của Người về đạo đức cách mạng . Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi cán bộ , đảng viên và nhân dân ta phải mài sắc cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội , xét lại , đấu tranh bác bỏ mọi luận điệu của các thế lực thù địch trong chiến lược "diễn biến hoà bình " , bảo vệ nền tảng tư tưởng, bảo vệ Cương lĩnh , đường lối , bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa và Tổ quốc Việt Nam .

32

TIẾP TỤC ĐỔI MỚI , NÂNG CAO HIỆU QUẢ , ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC ( Tham luận của đồng chí Võ Đức Huy , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Phó Trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan kinh tế Trung ương )

Tiếp tục đổi mới , phát triển và nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là một nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước , toàn dân , của các ngành , các cấp trong những năm tới . Trong Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội trình Đại hội X của Đảng đã đánh giá sâu sắc tình hình và nêu lên những phương hướng, giải pháp rất quan trọng về vấn đề này . Chúng tôi xin bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung Báo cáo và xin có thêm một số ý kiến .

1. Về đánh giá tình hình Trong những năm qua , đặc biệt là từ năm 2001 (sau Hội nghị Trung ương 3 khoá IX) , việc sắp xếp , đổi mới doanh nghiệp nhà nước đã được đẩy mạnh và thu được nhiều kết quả quan trọng . Doanh nghiệp nhà nước đã bước đầu được cơ cấu lại , tập trung hơn vào những ngành , lĩnh vực then chốt , giữ vai trò nòng cốt của nền kinh tế và bảo đảm quốc phòng , an ninh . Doanh nghiệp 100 % vốn Nhà nước được sắp xếp lại theo hướng giảm mạnh số lượng . Đã có bước tiến rõ rệt trong đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất

33

lượng cổ phần hoá doanh nghiệp . Đã chuyển từ cổ phần hoá chủ yếu đối với những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ , làm ăn thua lỗ sang cổ phần hoá cả những doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn , làm ăn có hiệu quả , kể cả một số tổng công ty . Đã mở rộng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực kinh tế quan trọng . Việc cổ phần hoá đi dần theo cơ chế thị trường . Cơ chế , chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước đã được hoàn thiện một bước quan trọng, tạo cơ sở pháp lý để nâng cao tính tự chủ , tự chịu trách nhiệm và bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong kinh doanh . Nhìn chung, hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước có tiến bộ . Số doanh nghiệp nhà nước thua lỗ giảm dần . Việc đổi mới doanh nghiệp nhà nước được tiến hành có chương trình , kế hoạch cụ thể và sự chỉ đạo chặt chẽ của Thủ tướng Chính phủ , đồng thời phân cấp nhiều hơn cho các bộ , tỉnh , thành phố và tổng công ty lớn ; công bố rõ đến từng doanh nghiệp lộ trình sắp xếp , đổi mới ; có làm thí điểm trước khi triển khai rộng ; coi trọng hoàn thiện hệ thống luật pháp và bộ máy chỉ đạo . Thực hiện có kết quả chế độ , chính sách đối với người lao động trong sắp xếp , cổ phần hoá doanh nghiệp . Những kết quả đạt được vừa qua khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước ; qua thực tiễn cũng đúc rút được nhiều kinh nghiệm , tạo được niềm tin và quyết tâm lớn hơn đối với việc tiếp tục sắp xếp , đổi mới doanh nghiệp nhà nước sắp tới . Tuy nhiên , đối chiếu với yêu cầu của Nghị quyết Trung ương 3 và Trung ương 9 (khoá IX) , kết quả sắp xếp , đổi mới , phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước còn chưa cơ bản , chưa tạo được chuyển biến có tính chất lượng về mặt hiệu quả và sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần và hội nhập kinh tế quốc tế. Những hạn chế chủ yếu là :

34

- Doanh nghiệp nhà nước , kể cả các tổng công ty nhà nước , vẫn còn dàn trải ở nhiều ngành , sản phẩm . Số doanh nghiệp có quy mô nhỏ còn nhiều . Việc sắp xếp doanh nghiệp nhà nước mới thực hiện chủ yếu trong từng bộ , ngành , địa phương , chứ chưa phải dựa trên một quy hoạch tổng thể trong nền kinh tế .

· Sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của nhiều doanh nghiệp nhà nước còn thấp , là thách thức lớn trong hội nhập kinh tế quốc tế . Tư tưởng trông vào bao cấp , ưu ái của Nhà nước vẫn còn nặng . Hiện tượng tiêu cực , tham nhũng không còn là cá biệt trong khu vực doanh nghiệp nhà nước , đang gây bất bình trong xã hội . Các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá đến hết năm 2005 chủ yếu là quy mô nhỏ , tổng cộng chiếm khoảng 9 % tổng vốn trong doanh nghiệp nhà nước . Chưa thu hút được các nhà đầu tư chiến lược là các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới mua cổ phần để xây dựng các ngành kinh tế quan trọng . Các công ty cổ phần hoá chưa đổi mới có ý nghĩa về quản trị doanh nghiệp , đầu tư thiết bị và công nghệ mới . Những khó khăn , vướng mắc của doanh nghiệp sau cổ phần chậm được giải quyết có hiệu quả .

· Cơ chế quản lý doanh nghiệp 100 % vốn Nhà nước chưa có sự thay đổi căn bản theo chế độ công ty . Số doanh nghiệp nhà nước thực hiện phá sản quá ít so với thực trạng thua lỗ , mất khả năng thanh toán .

2. Về mục tiêu và phương hướng trong thời gian tới Để triển khai thực hiện có kết quả những chủ trương lớn đã nêu trong Báo cáo chính trị và Báo cáo kinh tế - xã hội , xin có thêm một số ý kiến đề xuất sau đây :

2.1 . Đề nghị xác định rõ vai trò quan trọng , nòng cốt của doanh nghiệp nhà nước Trong nền kinh tế nước ta , doanh nghiệp nhà nước có vai trò

35

rất quan trọng , làm nòng cốt , mở đường , thúc đẩy , tạo động lực phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế . Đánh giá vai trò của doanh nghiệp nhà nước phải nhìn toàn hệ thống doanh nghiệp nhà nước , chứ không nhìn riêng lẻ từng doanh nghiệp . Không chỉ tính hiệu quả của bản thân các doanh nghiệp nhà nước mang lại ; mà phải tính xem vốn đầu tư của Nhà nước vào khu vực doanh nghiệp nhà nước đã làm hạt nhân , làm đòn bẩy , tạo điều kiện thu hút và thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế khác như thế nào . Để phát huy được vai trò nòng cốt , nâng cao được hiệu quả và sức cạnh tranh trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước , phải kiên quyết xoá bỏ tình trạng biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp , làm thui chột cạnh tranh , hạn chế sự phát triển của nền kinh tế . Nhà nước cần dồn sức đầu tư vào những ngành , lĩnh vực thật sự then chốt , có ý nghĩa quyết định , thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá nền kinh tế , ổn định đời sống xã hội . Những ngành , lĩnh vực nào mà các thành phần kinh tế khác có khả năng làm tốt thì cần tạo điều kiện để các thành phần kinh tế đó phát triển , Nhà nước không nên đầu tư kinh doanh trùng lắp vào những ngành , lĩnh vực này .

2.2 . Việc sắp xếp , đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình, phải tiếp tục kiên trì thực hiện trong nhiều năm , với những khó khăn, thách thức quyết liệt Những doanh nghiệp nhà nước cần được sắp xếp , đổi mới trong thời gian tới chủ yếu có quy mô vừa và lớn , đang nắm giữ những ngành , lĩnh vực huyết mạch của đất nước và phải đảm đương vai trò chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế . Việc sắp xếp , đặc biệt là việc đổi mới , phát triển , nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của những doanh nghiệp này trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

36

có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước , là một quá trình đầy khó khăn và thử thách quyết liệt và cần phải có quyết tâm rất lớn . Trong 5-10 năm tới , tập trung sức tạo điều kiện , trước hết là bằng cơ chế, chính sách phát huy các nguồn lực trong và ngoài nước , để xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh có tầm cỡ khu vực và quốc tế, đa sở hữu , trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo ( nhưng không nhất thiết phải giữ trên 51 % vốn ) . Chính phủ chỉ cần tập trung nắm giữ khoảng 40-50 đầu mối là những tập đoàn kinh tế và những công ty nhà nước lớn làm chủ lực của nền kinh tế . Sớm xây dựng chiến lược phát triển doanh nghiệp , trong đó xác định rõ vai trò của doanh nghiệp nhà nước ở từng ngành , lĩnh vực . Cần có chiến lược , lộ trình , giải pháp khả thi để xây dựng từng tập đoàn kinh tế và công ty lớn cụ thể. Phát huy cao độ các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển khu vực doanh nghiệp nhà nước . Vừa thu hút nguồn lực bên ngoài để phát triển , vừa đẩy mạnh hoạt động đầu tư ra bên ngoài của doanh nghiệp nhà nước để không ngừng mở rộng thị trường với tư cách là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh tế quốc tế .

2.3. Tiếp tục nghiên cứu , xác định rõ thêm về mô hình của doanh nghiệp nhà nước theo chế độ công ty - Hầu hết công ty nhà nước là đa sở hữu dưới hình thức công ty , trong đó Nhà nước có cổ phần chi phối (nhưng không nhất thiết giữ trên 51 % vốn ). Đối với những doanh nghiệp mà trong một thời gian nhất định Nhà nước còn nhất thiết phải giữ 100 % vốn , thì trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh , còn lại nói chung là dưới hình thức công ty cổ phần nhiều chủ sở hữu là Nhà nước (các công ty nhà nước góp vốn ) ; không nên tiếp tục sử dụng rộng rãi hình thức công

37

ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là Nhà nước , mà nên hạn chế tối đa hình thức này . - Tất cả các doanh nghiệp nhà nước , cả với số doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước , đều hoạt động theo chế độ công ty . Nhà nước không giao vốn mà đầu tư vốn vào các công ty nhà nước thông qua các công ty đầu tư tài chính Nhà nước . Chủ đầu tư không can thiệp trực tiếp vào hoạt động của công ty mà tác động vào đường hướng kinh doanh của công ty thông qua các thành viên hội đồng do chủ đầu tư cử tham gia hội đồng quản trị . Cùng với việc hình thành và phát triển thị trường nhân lực quản trị kinh doanh , thực hiện cơ chế hội đồng quản trị có quyền tuyển chọn và sử dụng người quản trị doanh nghiệp . Xây dựng cơ chế tuyển chọn những người quản trị kinh doanh , khác với cơ chế tuyển chọn công chức trong bộ máy hành chính công quyền . - Xóa bỏ chế độ cơ quan hành chính (bộ , uỷ ban nhân dân ) chủ quản doanh nghiệp . Các cơ quan hành chính quản lý nhà nước như nhau đối với mọi thành phần kinh tế, không phân biệt hình thức sở hữu . Không giao các cơ quan hành chính nhà nước quyền của chủ sở hữu mà giao quyền đó cho công ty đầu tư tài chính Nhà nước ( quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp theo cơ chế hợp đồng cam kết) . Hình thành một cơ quan nhà nước cấp bộ làm đầu mối giúp Chính phủ theo dõi , tổng hợp tình hình , đề xuất giải pháp đối với khu vực doanh nghiệp mà Nhà nước có vốn đầu tư . · Nghiên cứu tổ chức cơ sở đảng tại các loại hình doanh nghiệp (không phân biệt sở hữu) đều có chung một chức năng là lãnh đạo bảo đảm thực hiện pháp luật ; giáo dục lòng yêu nước , tự hào dân tộc , kiên định chủ nghĩa xã hội ; phát huy sáng kiến , sáng tạo của đội ngũ người lao động; bảo vệ lợi ích theo pháp luật của người quản lý và người lao động .

38

2.4 . Chuyển mạnh thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường

Thực tế những năm qua cho thấy rằng, mục tiêu quan trọng nhất của cổ phần hoá là thu hút các nguồn vốn đầu tư xã hội để tăng nguồn lực , tạo sinh lực mới cho phát triển doanh nghiệp ; chuyển doanh nghiệp sang hoạt động theo chế độ công ty , tạo động lực để doanh nghiệp thực sự tự chủ kinh doanh , làm sống động và phát triển mạnh mẽ trong cơ chế thị trường . Cổ phần hoá chỉ thực sự đạt được mục tiêu trên nếu thu hút được các cổ đông thực sự là những nhà đầu tư trong và ngoài nước có tiềm lực mạnh về vốn , công nghệ , thương hiệu , thị trường, trình độ quản lý hiện đại ; từ một nhà đầu tư duy nhất là Nhà nước , chuyển sang có nhiều nhà đầu tư cùng chung sức phát triển công ty ; trong đó , ở những lĩnh vực then chốt nhất , kinh tế Nhà nước có vai trò chủ đạo. Với mục tiêu cổ phần hoá (hay nói rộng hơn là phát triển công ty cổ phần ) như vậy , thì càng là doanh nghiệp nhà nước lớn , quan trọng , càng cần được cổ phần hoá hoặc được thành lập mới dưới hình thức công ty cổ phần . Để bán cổ phần doanh nghiệp được giá trên thị trường , trước hết phải " tạo giá " cho doanh nghiệp , quan trọng nhất là xác định được phương án sản xuất , kinh doanh có hiệu quả cao phù hợp với vị trí mặt bằng đất của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường . Phải thực sự thu hút được trí tuệ của các nhà tư vấn tài năng vào việc này ( đây đang là khâu yếu nhất trong tiến trình cổ phần hoá ) . Giá trị doanh nghiệp cần tính đầy đủ cả phần hữu hình và vô hình ; nhiều trường hợp phần vô hình ( như uy tín thương hiệu , khả năng mở rộng thị trường , ... ) có giá trị rất lớn so với phần hữu hình . Để hình thành " giá bán " cổ phiếu của doanh nghiệp theo cơ

39

chế thị trường , dứt khoát cổ phiếu phải được đưa lên sàn giao dịch của thị trường chứng khoán hoặc phải đấu giá . Với cách làm đó , phải thay đổi căn bản về quan niệm , xoá bỏ những lấn cấn về su đắt rẻ , mất mát vật chất cụ thể , dẫn đến việc quy trách nhiệm hình sự hoặc hành chính những quan hệ mua bán cổ phiếu trong cơ chế thị trường . Người quản lý có vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng của công ty . Do vậy , để tạo sự gắn bó sống còn cùng công ty, những người quản lý có tài năng và tâm huyết cần được khuyến khích mua nhiều cổ phiếu công ty . Người lao động trong thời gian làm việc tại công ty có thể được mua với giá ưu đãi một lượng cổ phiếu nhất định để hưởng cổ tức , qua đó cảm nhận được và quan tâm đến hiệu quả hoạt động của công ty , số cổ phiếu này không giao cho người lao động giữ mà chỉ ghi tên trong danh sách , không được mua đi bán lại ; khi về hưu thì bán lại cổ phiếu đó cho công ty để bán cho những người lao động khác trong công ty. Tiếp tục đổi mới , nâng cao hiệu quả , đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề lớn , rất hệ trọng đối với sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới , cần tạo được sự nhất trí cao và quyết tâm lớn của toàn dân , toàn Đảng , các ngành , các cấp về quan điểm , chủ trương trong thực hiện .

40

TĂNG NHANH NĂNG LỰC , HIỆN ĐẠI HOÁ NGÀNH BƯU CHÍNH - VIỄN THÔNG VÀ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

( Tham luận của đồng chí Đỗ Trung Tá , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Bưu chính - Viễn thông ,

đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long )

Sau 20 năm đổi mới toàn diện , bên cạnh những thành tựu quan trọng của đất nước trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội , bưu chính , viễn thông và công nghệ thông tin Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc , tăng nhanh năng lực , không ngừng được hiện đại hoá , rút ngắn khoảng cách phát triển hàng thập kỷ so với các nước trong khu vực và trên thế giới , tạo điều kiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế , bảo đảm an ninh , quốc phòng và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Với chủ đề " Tăng nhanh năng lực , hiện đại hoá ngành Bưu chính - Viễn thông và Công nghệ thông tin " , bản tham luận này mong muốn đề cập đến những sở cứ khoa học và thực tiễn từ hoạt động của ngành Bưu chính - Viễn thông và Công nghệ thông tin Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng , góp phần minh hoạ sự thành công của đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo .

41

THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN

.1 . Xây dựng định hướng , chiến lược , quy hoạch phát triển trên cơ sở khoa học, thực tiễn Trước năm 1986 , do tình trạng khủng hoảng kinh tế , ngành Bưu điện có mạng lưới bưu chính , viễn thông nhỏ bé , công nghệ lạc hậu , dịch vụ nghèo nàn , đời sống cán bộ , công nhân , viên chức hết sức khó khăn . Nhờ chủ trương đổi mới toàn diện do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra và qua phân tích đánh giá tình hình trong nước , xu hướng phát triển bưu chính , viễn thông thế giới , ngành Bưu điện đã xác định chiến lược là phải đổi mới cơ chế hoạt động với những quyết sách dũng cảm : chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang mô hình " tự vay , tự trả , tự chịu trách nhiệm " , " đi thẳng vào công nghệ hiện đại" (công nghệ số )... Sau 5 năm ( 1987-1992) tự đổi mới mình cả về tư duy lý luận và tư duy kinh tế , cả về tổ chức và kinh doanh, ngành Bưu điện bắt tay thực hiện chiến lược " tăng tốc " cho giai đoạn 1993-2000 . Kết quả là , mạng lưới viễn thông đã được số hoá , tự động hoá hoàn toàn , thị trường phát triển nhanh , phát triển các dịch vụ mới , mở rộng vùng phục vụ xuống nông thôn (năm 1995 đạt mật độ điện thoại 1 máy/ 100 dân , rút ngắn 5 năm so với mục tiêu quy hoạch , năm 2000 đạt mật độ điện thoại 5 máy / 100 dân) , kinh doanh có hiệu quả , nợ trả đúng hạn , nộp ngân sách tăng , tiềm lực công nghiệp đáp ứng kịp yêu cầu phát triển nhanh , cho phép hình thành một số doanh nghiệp mới , tập dượt cạnh tranh , chuẩn bị cho mở cửa , hội nhập kinh tế quốc tế . Đón trước thời cơ , giai đoạn 2001-2010 , chiến lược phát triển của ngành là " hội nhập và phát triển " nhằm phát huy tối đa nội lực , tạo môi trường cạnh tranh sâu hơn , rộng hơn trong nước để tiếp tục đổi mới công nghệ , mở rộng năng lực mạng lưới , đa dạng

42

hoá các loại hình dịch vụ , đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, hạ giá thành và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Một mốc đáng nhớ là ngày 29-4-2003 , thị trường viễn thông Việt Nam đã xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp và chuyển sang cạnh tranh trên tất cả các loại hình dịch vụ , tạo lập một thị trường viễn thông sôi động, tăng trưởng vượt bậc (tốc độ tăng trưởng đều đạt trên 20 % năm) , giá cước giảm mạnh (tới cuối năm 2005 , theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới , giá cước viễn thông Việt Nam đã giảm tương đồng với giá cước viễn thông trong khu vực) . Đến nay, mật độ điện thoại trên toàn quốc đạt trên 20% (vượt 2,5 lần chỉ tiêu Đại hội IX) , người sử dụng Internet đạt trên 14 % (vượt chỉ tiêu đặt ra vào năm 2010) , bưu chính , viễn thông và Internet ngày càng sát với nông thôn , nông dân , theo đúng tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá IX) về "Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn giai đoạn 2001-2010 " . Theo đà này, các chỉ tiêu phát triển chủ yếu của ngành vào năm 2010 ít nhất đều tăng gấp đôi so với năm 2005 (các chỉ tiêu này đã được đưa vào văn kiện trình Đại hội X của Đảng) . Dự kiến từ năm 2011 đến năm 2020 sẽ thực thi " chiến lược cất cánh " của công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam . Vào năm 2020 , mức độ sử dụng dịch vụ viễn thông và Internet Việt Nam sẽ đạt mức phát triển tương đương với mức trung bình của các nước G7 .

2. Chủ động phát huy nội lực kết hợp với sức mạnh hợp tác quốc tế Ngay từ những ngày đầu của quá trình đổi mới , với phương châm đa dạng hoá , đa phương hoá quan hệ quốc tế, ngành Bưu chính Viễn thông đã thu hút được từ bên ngoài cả công nghệ cao và cả nguồn vốn dồi dào trên 2 tỷ USD để phát triển mạng lưới bưu chính , viễn thông trong nước , ưu tiên đầu tư cho các

43

trung tâm kinh tế, chính trị , thương mại , các vùng có nhu cầu cao , doanh thu lớn từ đó tạo vốn để thúc đẩy đầu tư ở những nơi còn lại . Mở cửa thị trường để thúc đẩy nội lực và phát huy nội lực để mở cửa thị trường là 2 mặt của một vấn đề có quan hệ biện chứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế. Việc mở cửa thị trường viễn thông ở Việt Nam đã được thực hiện theo một lộ trình chặt chẽ , hợp lý và khoa học . Năm 1995 , Viettel và SPT được thành lập cùng với sự ra đời của Tổng công ty 91 VNPT là mở màn cho sự tập dượt cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước . Từ năm 1997 đến năm 2003 , việc cạnh tranh được tiến hành mở rộng từng bước , lúc đầu là đối với dịch vụ Internet , dịch vụ điện thoại đường dài và quốc tế sử dụng công nghệ mới (VoIP ) , dịch vụ chuyển phát bưu chính và sau đó , từ năm 2003 , đã xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp , tạo môi trường cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực dịch vụ . Đến nay , đã có 8 doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng mạng và hơn 20 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế . Để phát huy nội lực , chủ động hội nhập , ngành đã kiên quyết xoá bỏ cơ chế bao cấp , chủ quản , thực hiện nhiều hình thức huy động và sử dụng vốn có hiệu quả . Thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 ( Khoá IX) về " Tiếp tục sắp xếp , đổi mới , phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước" , Chính phủ và ngành đã tạo nhiều cơ chế , chính sách để các doanh nghiệp mới phát triển một cách ổn định , bền vững, đồng thời với việc triển khai vận hành Tập đoàn Bưu chính , viễn thông Việt Nam (VNPT) .

Đồng thời với việc mở rộng hợp tác song phương , ngành cũng hoạt động tích cực và có hiệu quả trong các tổ chức bưu chính , viễn thông quốc tế. Kết quả là Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã 2 - 3 nhiệm kỳ liên tục được bầu vào Ban Chấp hành (cơ quan quyền lực cao nhất ) của các tổ chức quốc tế về bưu chính (UPU ) và viễn thông (ITU ). Hoạt động trong các tổ chức quốc tế , vừa nâng cao uy

44

tín của Việt Nam trên trường quốc tế , vừa là môi trường rất thuận lợi để học tập , trao đổi kinh nghiệm và có điều kiện đóng góp cho sự phát triển chung . Đây cũng là một nội dung quan trọng mà ngành đã cụ thể hoá Nghị quyết 07- NQ /TW của Bộ Chính trị ngày 27-11-2001 về " Hội nhập kinh tế quốc tế" .

3. Phát triển nhanh, tăng trưởng bền vững, góp phần bảo đảm quốc phòng - an ninh và bảo đảm lợi ích ngày càng tốt hơn cho người tiêu dùng

Các dịch vụ bưu chính ngày càng phong phú , tiện lợi . Tính đến hết năm 2005 , mạng lưới bưu chính Việt Nam có 17.269 điểm phục vụ , 7.534 điểm Bưu điện - Văn hoá xã , bán kính phục vụ bình quân là 2,49 km/điểm , đạt mức tiên tiến trên thế giới . Viễn thông và Internet có tốc độ tăng trưởng cao , 5 năm qua liên tục đứng trong nhóm nước dẫn đầu thế giới . Đến cuối năm 2005 , 100 % số xã trong cả nước đã có điện thoại , 91 % số xã có báo đến trong ngày đã khẳng định Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển thực hiện tốt việc phổ cập dịch vụ viễn thông, thu hẹp khoảng cách số giữa nông thôn và thành thị . Hiện đã có 100 % các trường đại học và cao đẳng, hầu hết các trường trung học phổ thông và một số trường trung học cơ sở đã có kết nối Internet . Internet đã xuống trên 1/3 các điểm Bưu điện - Văn hoá xã . Cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia phát triển nhanh không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà còn góp phần bảo đảm an ninh , quốc phòng .

4. Xây dựng nền công nghiệp bưu chính, viễn thông và công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam Thông qua các liên doanh với nước ngoài , các hình thức liên kết và tự nghiên cứu - phát triển , công nghiệp bưu chính , viễn thông đã hình thành với công nghệ hiện đại , đáp ứng phần lớn nhu cầu

45

phát triển mạng lưới , dịch vụ và một phần xuất khẩu , trong đó có một số sản phẩm đáng chú ý như : tổng đài điện tử , thiết bị truyền dẫn số , thiết bị ngoại vi , cáp quang... Thực hiện Chỉ thị 58- CT/TW của Bộ Chính trị về " Đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước " , ngành đang tập trung phát triển công nghiệp công nghệ thông tin bao gồm cả công nghiệp phần cứng , công nghiệp phần mềm và công nghiệp nội dung . Theo dự báo của Bộ Bưu chính Viễn thông , công nghiệp công nghệ thông tin của Việt Nam sẽ phát triển thành một ngành công nghiệp mũi nhọn với tổng doanh thu đạt khoảng 6-7 tỷ USD vào năm 2010 , có chỗ đứng vững chắc trên thị trường nội địa , bước đầu có xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Trong lĩnh vực gia công phần mềm , Việt Nam sẽ khẳng định được vị trí trong nhóm 10 nước hàng đầu trên thị trường thế giới . Công nghiệp phần mềm tăng trưởng 35 %/ năm , đạt tổng số giá trị khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010 , trong đó xuất khẩu chiếm 40 % . Việt Nam sẽ trở thành trung tâm sản xuất thiết bị điện tử và máy tính của khu vực vào năm 2010.

Công nghiệp phần cứng máy tính sẽ tăng trưởng

20 %/năm , tổng giá trị đạt 2-3 tỷ USD vào năm 2010. Cơ cấu sản phẩm của công nghiệp điện tử sẽ được chuyển đổi theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm chuyên dụng lên 50 % tổng sản lượng công nghiệp điện tử .

Công nghiệp phụ trợ và sản xuất linh kiện sẽ được phát triển theo hướng từng bước tiếp nhận , làm chủ công nghệ và tiến tới tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao mang thương hiệu Việt Nam . Dự báo đến năm 2010 , tỷ trọng doanh thu công nghiệp công nghệ thông tin sẽ đạt khoảng 9-10 % GDP và đến năm 2020 đạt khoảng 10-12 % GDP . Các con số dự báo theo các năm nêu trên cũng chính là tiêu chí phát triển và lộ trình đến năm 2020 của công nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam .

46

5. Tạo động lực cho người lao động, phát huy sức mạnh tổng hợp Đảng - Chuyên môn • Công đoàn phục vụ cho phát triển Với mười chữ vàng truyền thống " Trung thành , Dũng cảm , Tận tuy , Sáng tạo , Tình nghĩa" , ngành Bưu

điện thực sự coi trọng

truyền thống , sự đoàn kết và nhân tố con người. Xác định con người là trung tâm của sự phát triển , vì vậy ngành đã xây dựng các cơ chế , chính sách tạo động lực cho người lao động và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao tương xứng với các chiến lược phát triển ngành . Hệ thống các cơ sở đào tạo của ngành gồm Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông của VNPT (được thành lập theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 Khoá VIII về thí điểm mô hình gắn kết đào tạo - nghiên cứu - sản xuất trong một số tổng công ty lớn) , Trường Cao đẳng Công nghệ thông tin , 4 trường trung học bưu chính , viễn thông và công nghệ thông tin , cùng với hệ thống đào tạo trên toàn quốc về công nghệ thông tin và truyền thông ( 13 cơ sở đào tạo trên đại học , 62 cơ sở đào tạo đại học và hơn 100 cơ sở đào tạo cao đẳng và trung học ) đã giúp cho ngành chủ động thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực . Hệ thống các cơ sở y tế có uy tín của ngành gồm ba bệnh viện và ba viện điều dưỡng bảo đảm việc chăm lo sức khoẻ cho cán bộ , công nhân , viên chức toàn ngành và có đóng góp cho xã hội . Cấp uỷ cùng với thủ trưởng đơn vị và tổ chức công đoàn các cấp trong toàn ngành luôn luôn thống nhất tư tưởng và hành động , cùng chăm lo công tác cán bộ , phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị vì sự tiến bộ của ngành , của từng đơn vị cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi gia đình và bản thân người lao động .

BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Các thành tựu đạt được của ngành Bưu chính , Viễn thông và Công nghệ thông tin Việt Nam trong những năm qua đã khẳng

47

định đường lối đúng đắn của Đảng , khẳng định sự sáng tạo và năng lực thực tiễn của ngành trong việc thực hiện đường lối của Đảng và mang lại nhiều bài học quý báu . Một là, quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng vào thực tiễn hoạt động của ngành , thực sự đổi mới tư duy và hành động, chủ động, sáng tạo , phát huy nội lực , quyết định táo bạo để hoạch định chiến lược , quy hoạch, kế hoạch đổi mới và phát triển ngành . Hai là, quyết tâm cao , dám chịu trách nhiệm , có giải pháp quyết liệt và quy tụ được sức mạnh tổng hợp . Khắc phục tâm lý ỷ lại , trông chờ , lấy nhu cầu thị trường làm trọng điểm của kế hoạch phát triển , chủ động đề xuất cơ chế tự tạo vốn , tự vay, tự trả và tự chịu trách nhiệm . Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và sản xuất kinh doanh , dũng cảm chuyển từ một ngành phục vụ sang kinh doanh , có lộ trình mở cửa thị trường phù hợp , đáp ứng các yêu cầu của xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Ba là, có các chương trình hành động cụ thể thực hiện các nghị quyết của Trung ương với mục tiêu rõ ràng, giải pháp và bước đi phù hợp , chú trọng tổng kết , điều chỉnh kịp thời qua các giai đoạn . Trong quá trình thực hiện , khi đối mặt với khó khăn thách thức , cả ngành đã một lòng đoàn kết , vượt qua chính mình , giữ vững truyền thống , xứng đáng với vinh dự là ngành kinh tế được Đảng, Nhà nước trao tặng đầu tiên Huân chương Sao vàng , đền đáp sự hy sinh của hơn 1 vạn liệt sĩ và công lao của hơn 50 đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân qua hai cuộc kháng chiến . Sự gắn kết đổi mới ngành với đổi mới điều kiện sống và làm việc của cán bộ , công nhân , viên chức đã trở thành nhân tố thúc đẩy ngành ngày càng phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước .

48

KẾT LUẬN

Trong những năm qua , được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước , ngành Bưu chính , Viễn thông và Công nghệ thông tin đã có những bước phát triển vượt bậc , đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước , góp phần bảo đảm an ninh , quốc phòng. Với tốc độ phát triển như hiện nay và tính khả thi cao của các chiến lược đã được phê duyệt thì đến năm 2020 , các tiêu chí đặc trưng cho trình độ phát triển bưu chính , viễn thông và công nghệ thông tin của Việt Nam sẽ đạt trình độ của các nước công nghiệp . Đầu năm 2006 , với sự hợp tác cùng các tập đoàn công nghệ thông tin lớn của thế giới như Intel , Microsoft ..., thị trường công nghệ thông tin của Việt Nam có sự hấp dẫn mới . Để thực hiện được mục tiêu này , Ban cán sự đảng Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ chỉ đạo toàn ngành phấn đấu thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X và mong muốn Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm chỉ đạo sát sao , hoàn thiện các cơ chế , chính sách để huy động được tổng lực cả tinh thần và vật chất của toàn xã hội cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Tin tưởng rằng , sự phát triển đi trước một bước của ngành Bưu chính , Viễn thông và Công nghệ thông tin sẽ góp phần thiết thực đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như mục tiêu của Đảng đã đề ra .

49

CÁC GIẢI PHÁP THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2006-2010 ( Tham luận của đồng chí Hoàng Trung Hải , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Công nghiệp , đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum )

Thực hiện đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra , ngành Công nghiệp đã vượt qua nhiều khó khăn thách thức , đóng góp một phần quan trọng vào những thành tựu to lớn của đất nước trong 20 năm đổi mới . Trong giai đoạn 2001-2005 , giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước , đạt mức tăng bình quân là 16%/năm , vượt chỉ tiêu của Đại hội IX đề ra . Cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng tích cực cả về ngành và về thành phần kinh tế . Từ năm 2000 đến năm 2005 , tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng liên tục từ 36,7 % lên 41 % ; tỷ trọng khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm từ 41,8% , còn 34,3 % ; khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 22,3 % lên 28,5 % ; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài từ 35,9 % tăng dần lên 37,2 % . Trong nội bộ ngành công nghiệp , tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng từ 79,7 % lên 84,9 % ; công nghiệp khai thác giảm từ 13,8% xuống còn 9,1 % ; công nghiệp sản xuất , phân phối điện , khí đốt và nước giảm từ 6,5 % xuống 6 % .

50

Những sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất , tiêu dùng và xuất khẩu đều có mức tăng khá trong nhiều năm ; đáp ứng cơ bản nhu cầu trong nước như than mỏ , thép xây dựng , phân lân , phân NPK , săm lốp xe đạp , săm lốp xe máy , pin , ắc quy , chất tẩy rửa , quần áo may sẵn , giày dép , sữa , dầu thực vật ... nhiều mặt hàng chế biến xuất khẩu tăng dần như dệt may , da giày , một số sản phẩm cơ khí , điện tử , điện gia dụng , hàng thủ công mỹ nghệ , sứ dân dụng , đồ gỗ , quạt điện ... nhiều sản phẩm đã thực hiện vượt chỉ tiêu Đại hội IX như than mỏ ( từ năm 2003) , điện , xi măng, giấy , phân bón hoá học ( từ năm 2004 ) thép xây dựng , sữa ( năm 2005) . Bước vào giai đoạn kế hoạch 5 năm 2006-2010 , giai đoạn có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 , hướng tới sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , ngành công nghiệp đã đề ra định hướng và mục tiêu phát triển như sau :

Về định hướng phát triển Thứ nhất , phát triển công nghiệp theo một cơ cấu mới , năng động hơn , lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển và thực hiện chuyển dịch mạnh mẽ sang các ngành có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn ; hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả nước trên cơ sở đa dạng hoá về quy mô và chế độ sở hữu ; tăng tỷ trọng sản phẩm công nghiệp công nghệ cao , công nghiệp sạch và công nghiệp có hàm lượng tri thức lớn , làm cho nền công nghiệp có sức cạnh tranh , đạt hiệu quả cao và phát triển bền vững . Thứ hai , trong giai đoạn 2006-2010 , lấy xuất khẩu làm mục tiêu phát triển công nghiệp và là thước đo khả năng hội nhập chủ động vào khu vực và quốc tế , trên cơ sở tập trung nguồn lực cho phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh như chế

51

biến nông - lâm - thuỷ hải sản , thực phẩm , may mặc , giày dép , cơ khí đóng tàu , chế tạo thiết bị , lắp ráp cơ điện tử , xe máy và phụ tùng , đồng thời coi trọng việc phát triển thị trường trong nước . Ưu tiên thoả đáng cho việc phát triển các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất để góp phần bảo đảm khả năng độc lập , tự chủ của nền kinh tế; phát triển các ngành công nghiệp có tiềm năng , các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ cao . Phát triển công nghiệp năng lượng , đặc biệt năng lượng mới và tái tạo , áp dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tiết kiệm nguyên vật liệu , công nghiệp cơ khí chế tạo và cơ - điện tử . Chú trọng phát triển công nghệ thông tin , công nghệ sinh học , công nghiệp hỗ trợ , công nghiệp phục vụ xuất khẩu , công nghiệp phục vụ phát triển giao thông, xây dựng và dịch vụ . Xây dựng chương trình phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn ; có cơ chế , chính sách phát triển và gắn kết các vùng nguyên liệu tập trung với công nghiệp chế biến . Thứ ba , tăng cường hợp tác và tham gia phân công sản xuất công nghiệp với khu vực và quốc tế, từng bước đưa công nghiệp Việt Nam trở thành một mắt xích của hệ thống công nghiệp khu vực và quốc tế. Phát triển công nghiệp gắn với phát triển dịch vụ , phát triển đô thị và bảo vệ môi trường , môi sinh . Về mục tiêu : ngành Công nghiệp xác định 4 mục tiêu phát triển sau : Mục tiêu thứ nhất : Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng sản xuất bình quân toàn ngành 15,2 - 15,5 %/ năm . Tăng trưởng GDP công nghiệp và xây dựng bình quân 9,5 - 10,2 %/năm . Phấn đấu đến năm 2010 tỷ trọng công nghiệp và xây dựng chiếm 43-44 % trong GDP cả nước . Cơ cấu công nghiệp quốc doanh giảm từ 34,9 % năm 2005 xuống khoảng 31 % năm 2010 , công nghiệp khu vực ngoài quốc doanh tăng từ 28,9 % năm 2005 lên khoảng 33 % và khu vực

52

đầu tư nước ngoài tăng chậm hơn từ 35,4 % lên 36 % . Đến năm 2010 , công nghiệp khai khoáng chiếm tỷ trọng 7,8% giá trị sản xuất công nghiệp , công nghiệp chế biến chiếm 88,3% , công nghiệp điện , nước , ga chiếm 3,9% . Mục tiêu thứ hai : Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành để giữ vững và mở rộng thị trường trong nước và quốc tế; chuẩn bị thật tốt để chủ động tham gia có hiệu quả khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO . Mục tiêu thứ ba : Bảo đảm cân đối cung cầu của nền kinh tế về những sản phẩm công nghiệp trọng yếu ; đáp ứng cơ bản những mặt hàng tiêu dùng với chất lượng ngày một nâng cao , có giá cả phù hợp sức mua của thị trường trong và ngoài nước . Mục tiêu thứ tư : Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu ( đạt bình quân 16%/ năm ) ; đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm đã qua chế biến , có hàm lượng công nghệ cao , đưa tỷ trọng hàng công nghiệp chiếm 77-80 % tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước . Tạo mọi điều kiện để đưa tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu đã qua chế biến lên 65-70% vào năm 2010 . Để thực hiện được những định hướng và mục tiêu nêu trên , một trong những giải pháp có ý nghĩa quyết định để phát triển công nghiệp giai đoạn 2006-2010 là phải tăng cường các biện pháp thu hút vốn ở trong nước và ngoài nước để đầu tư phát triển , nhất là đối với các công trình quan trọng của ngành . Sau đây , chúng tôi xin được thay mặt Ban cán sự Đảng bộ Công nghiệp báo cáo với Đại hội một số giải pháp về vốn đầu tư giai đoạn 2006-2010 . Trước hết , về nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2006-2010 : Trong giai đoạn 2006-2010 , tổng nhu cầu vốn của riêng ngành Công nghiệp ước tính khoảng 900 nghìn tỷ đồng , chiếm 40 % tổng nhu cầu xã hội , trong đó tập trung vào các lĩnh vực sau :

1. Nghị quyết Đại hội IX là 70-75 % .

53

Ngành điện khoảng 350 nghìn tỷ đồng, dầu khí 200 nghìn tỷ đồng , than - khoáng sản 78 nghìn tỷ đồng , thép 44 nghìn tỷ đồng , cơ khí 96 nghìn tỷ đồng, hoá chất 32 nghìn tỷ đồng , dệt may 50 nghìn tỷ đồng , ngành nhựa 51 nghìn tỷ đồng ... Đây là khối lượng vốn hết sức lớn và chủ yếu lại phải do các doanh nghiệp tự huy động , số vốn từ ngân sách nhà nước là không đáng kể ( 7 % ) , cho nên nếu không có sự năng động của các ngành công nghiệp thì sẽ không thể đáp ứng đủ cho nhu cầu phát triển . Với yêu cầu về vốn đầu tư như trên , các giải pháp thu hút vốn đầu tư là : Cần tích cực đẩy mạnh chương trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước , đặc biệt đẩy nhanh việc cổ phần hoá để thu hút nguồn vốn đầu tư mới từ xã hội thông qua thị trường chứng khoán . Đối với các dự án ngành điện với tổng nhu cầu đầu tư giai đoạn 2006-2010 khoảng 350 nghìn tỷ đồng sẽ được huy động từ các nguồn đầu tư điện độc lập (IPP) và BOT khoảng trên 30% , huy động vốn khấu hao cơ bản để lại khoảng 36 % , vay ODA khoảng 21 % , bán cổ phiếu khoảng 7 % ... Ngoài ra , có thể phát hành trái phiếu công trình , nhất là đối với các công trình nguồn điện . Ngành điện sẽ ưu tiên đầu tư các dự án sử dụng vốn ODA và FDI trước , từng bước cổ phần hoá các nhà máy điện thu hút vốn để đầu tư mới . Đối với các dự án thuỷ điện nhỏ , kêu gọi đầu tư của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh theo hình thức IPP là chính . Đối với ngành dầu khí , hầu hết là những dự án có nhu cầu vốn lớn , công nghệ tiên tiến , nên ưu tiên thu hút vốn đầu tư nước ngoài , một số dự án hạ nguồn có thể cho phép 100 % vốn nước ngoài . Đối với Nhà máy lọc dầu Dung Quất cơ cấu vốn đã được xác định rõ và dự án đã khởi công thực hiện . Qua đó cho thấy , để thực hiện đầu tư nhà máy lọc dầu số 2 nhanh hơn nên định hướng thu hút vốn FDI ngay từ giờ . Với nhu cầu vốn trong giai đoạn 20062010 khoảng trên 200 nghìn tỷ đồng , sẽ huy động nguồn vốn của

54

doanh nghiệp (bao gồm lợi nhuận của phần vốn thu từ các liên doanh , vốn khấu hao cơ bản) , vốn từ cổ phần hoá khoảng 28 % , còn lại huy động từ nguồn vay các ngân hàng trong và ngoài nước . Đối với ngành khai khoáng và luyện kim : các dự án của ngành thường có quy mô lớn , công nghệ phức tạp và yêu cầu ở trình độ cao như Liên hợp khai thác mỏ và luyện kim Hà Tĩnh công suất 4,5 triệu tấn thép/năm cần lượng vốn đầu tư trên 3 tỷ USD , Nhà máy thép cán nguội Phú Mỹ 1.900 tỷ đồng ; Nhà máy thép Phú Mỹ 2.350 tỷ đồng ... Có thể cho phép nước ngoài tham gia cổ phần đầu tư cả khâu khai thác mỏ và luyện kim , trong đó khâu khai thác mỏ ta giữ cổ phần chi phối , còn khâu luyện kim có thể 100% vốn nước ngoài ; dự án khai thác bôxít sản xuất alumin nói chung cũng có thể kêu gọi đầu tư nước ngoài theo hình thức trên . Phần vốn cho công tác điều tra thăm dò địa chất khoáng sản thì Nhà nước cần tăng cường đầu tư để có số liệu trữ lượng địa chất cho công tác quy hoạch , kêu gọi đầu tư các dự án . Đối với ngành cơ khí , do đặc thù cần vốn lớn nhưng thu hồi vốn chậm nên được ưu tiên sử dụng nguồn vốn trong nước , chủ yếu là tín dụng nhà nước . Muốn vậy , phải tiếp tục đổi mới cơ chế vay trả có chính sách tỷ giá ổn định , điều chỉnh linh hoạt , ít rủi ro cho nhà đầu tư mà lại kiểm soát được để vừa tiếp tục huy động nguồn vốn trong dân cư qua các ngân hàng, vừa thực hiện được việc cho vay để đầu tư . Đối với các dự án sản xuất phân bón cũng cần ưu tiên sử dụng vốn trong nước kết hợp kêu gọi vốn ODA của nước ngoài như sản xuất DAP (vốn đầu tư 156 triệu USD ) và cho phép nước ngoài đầu tư 100 % như sản xuất phân đạm từ than ; một số dự án hoá chất quy mô lớn như xút - Clo - EDC /VCM công suất 200 ngàn tấn xút/năm (vốn đầu tư khoảng 220 triệu USD ) , sôđa 200 ngàn tấn /năm ( vốn khoảng 89 triệu USD ) ; săm lốp ô tô radian

55

2-3 triệu bộ/năm (vốn khoảng 180 triệu USD ) ... hướng ưu tiên kêu gọi vốn FDI .

Đối với các ngành sản xuất hàng tiêu dùng như dệt may , giày dép , bia rượu , nước giải khát , sữa , nhựa ... chủ yếu huy động nguồn vốn từ doanh nghiệp , từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ; doanh nghiệp nhà nước tập trung đầu tư vào khâu sản xuất nguyên liệu ( dệt nhuộm , vải sợi ) bằng vốn tín dụng nhà nước , vốn của doanh nghiệp và kêu gọi vốn nước ngoài . Để huy động được các nguồn vốn trong nước cũng như ngoài nước như đã nêu , chúng ta cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây :

Đối với nguồn vốn trong nước : Trên cơ sở các quy hoạch phát triển ngành , nghiên cứu xây dựng các cơ chế , chính sách định hướng cho nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp một cách hấp dẫn hơn , yên tâm hơn khi bỏ vốn ra đầu tư , hạn chế tối đa được những rủi ro , không tạo nên sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế , tạo nên một sân chơi bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp . Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ , doanh nghiệp hoạt động ở những địa bàn kinh tế khó khăn cần có cơ chế chính sách thật ổn định với mức độ khuyến khích cao , nhất là trong việc tiếp cận với đất đai , mặt bằng sản xuất , với các nguồn vốn . - Thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật đầu tư, Luật đấu thầu , nhằm thực hiện đúng tiến độ và bảo đảm được hiệu quả của dự án , đặc biệt rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng . Đồng thời , tăng cường công tác kiểm tra , giám sát của chủ đầu tư, của các cơ quan quản lý nhà nước để chống tham nhũng , lãng phí , thực hành tiết kiệm , tạo niềm tin cho nhân dân khi tham gia vốn vào đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh , tạo điều kiện thuận lợi cho mọi loại hình doanh nghiệp phát triển , tập trung vào xây dựng cơ chế một cửa thực sự ; tiến hành rà soát giảm thiểu các

56

loại giấy phép , thời gian cũng như chi phí gia nhập thị trường cho tất cả các nhà đầu tư; không hạn chế về quy mô đầu tư ; cần đổi mới cơ chế sử dụng vốn , thủ tục cho vay của các ngân hàng thương mại để huy động và cho vay tốt hơn . - Tiếp tục hoàn thiện và phát triển các loại thị trường , trong đó có thị trường vốn và thị trường bất động sản . Nên có các quy định để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phải niêm yết cổ phiếu và huy động qua thị trường chứng khoán . Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ , lành mạnh hoá các dịch vụ giao dịch , tăng cường mối liên kết giữa các tổ chức tài chính với người sản xuất bằng các hoạt động đầu tư vốn . Các ngân hàng tăng cường nguồn và hình thức cho vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển , nhất là cho các dự án có quy mô và nhu cầu vốn lớn . Đối với thị trường bất động sản cần sớm hình thành cơ chế giá bất động sản theo thị trường ; có chính sách để dễ dàng chuyển quyền sử dụng đất thành hàng hoá thì đất đai mới có thể trở thành nguồn vốn quan trọng cho phát triển .

- Cần thay đổi tư duy coi doanh nghiệp là đối tượng quản lý thành doanh nghiệp là đối tượng phục vụ . Trước khi ban hành chính sách mới , cần thăm dò dư luận rộng rãi xem tác động đến doanh nghiệp như thế nào ; tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân có cơ hội tiếp cận , đầu tư vào các lĩnh vực (liên quan đến cơ sở hạ tầng) mà các doanh nghiệp nhà nước đang độc quyền và đầu tư không hiệu quả . Đổi mới phương thức xúc tiến thương mại , gắn xúc tiến thương mại , du lịch , thu hút đầu tư nước ngoài với phát triển thị trường, thu hút các nguồn lực trong nước . Đối với nguồn vốn nước ngoài: Từng ngành cần xây dựng và công bố "Danh mục các dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài" . Đối với một số ngành nghề nhạy cảm như ngân hàng, bảo hiểm , hàng không ... cần có quy định rõ tỷ lệ khống chế vốn của nhà đầu tư nước ngoài một cách phù hợp . Đối

57

với các ngành nghề còn lại , cần mở rộng hơn tỷ lệ 30% như quy định hiện nay . Nghiên cứu sớm rút ngắn diện các dự án phải cấp phép đầu tư để chuyển sang hình thức chủ đầu tư đăng ký dự án , nghĩa là chuyển từ cơ chế " tiền kiểm " sang cơ chế " hậu kiểm ". - Đối với ngành công nghiệp , bên cạnh những dự án quy mô lớn cần kêu gọi các nhà đầu tư có trình độ công nghệ cao , năng lực tài chính mạnh , không hạn chế các nhà đầu tư đầu tư vào khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ , chuyển giao công nghệ tiên tiến , phát triển công nghiệp nông thôn , nhất là các nhà đầu tư trong khu vực Đông Á, một khu vực đang được coi là năng động nhất trong giai đoạn vừa qua và tiếp tục trong giai đoạn tới . Xây dựng các phương thức và chính sách phù hợp để có thể kêu gọi các tập đoàn kinh tế lớn đầu tư vào Việt Nam . Một trong những yêu cầu rất quan trọng là chúng ta phải chủ động kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng các dự án công nghệ cao, đặc biệt trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử tin học , phần mềm , vật liệu mới ... Đối với các nhà đầu tư này , chúng ta càng chuẩn bị tốt các điều kiện cho họ bao nhiêu thì tác động lôi cuốn tới các nhà đầu tư khác sẽ càng tăng bấy nhiêu .

· Tập trung nguồn lực trong nước và ODA để giải quyết những bất cập về cơ sở hạ tầng như cầu , đường , điện , nước , viễn thông , bến bãi ... Tạo điều kiện thông thoáng cho các nhà đầu tư tham gia thực hiện các dự án BOT , BT ... Chúng ta cần có biện pháp mạnh mẽ để đạt được một cái gì đó là nhanh nhất , là rẻ nhất trong khu vực làm sức hấp dẫn các nhà đầu tư . Ví dụ như đền bù và giải phóng mặt bằng nhanh nhất ; có giá cước điện thoại rẻ nhất ...

Cần bảo đảm thực hiện các nguyên tắc đối xử quốc gia , đối xử tối huệ quốc trong thu hút đầu tư nước ngoài , làm sao tạo nên một phản ứng dây chuyền tốt cho các nhà đầu tư trước lôi kéo các nhà đầu tư sau . Việt Nam đang được đánh giá có những lợi thế cơ bản

58

để thu hút đầu tư nước ngoài như thể chế chính trị , xã hội ổn định ; vị trí địa lý thuận lợi ; lực lượng lao động có tinh thần cần cù , chịu học hỏi , có trình độ ... nên rất cần hoàn thiện các yêu cầu khác để hấp dẫn các nhà đầu tư .

· Các địa phương , các chủ đầu tư cần tăng cường xúc tiến đầu tư trực tiếp với các đối tác , cùng với việc xây dựng và truyền thông cơ sở dữ liệu tập trung qua mạng điện tử quốc gia để cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin hữu ích về địa phương mình , doanh nghiệp mình , về mục tiêu và yêu cầu đầu tư dự án , về các cơ chế chính sách ưu đãi , về thủ tục đầu tư ... nhằm thu hút sự quan tâm của các đối tác và nhà đầu tư tiềm năng đang cân nhắc trong việc lựa chọn địa điểm và hướng đầu tư . - Tăng cường công tác kiểm tra giám sát của Chính phủ để bảo đảm các luật mới về đầu tư , đấu thầu thực thi một cách nghiêm túc . Khắc phục tình trạng thực thi kém hiệu quả ở các cấp , các ngành , tạo niềm tin cho các nhà đầu tư . Với các giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển ngành Công nghiệp giai đoạn 2006-2010 như vừa báo cáo , Ban cán sự đảng Bộ Công nghiệp xin hứa với Đại hội sẽ triển khai đầy đủ và hiệu quả nhất . Với sự phối hợp cùng các bộ , ngành liên quan , ngành Công nghiệp xin hứa với Đại hội bằng tất cả nỗ lực và trách nhiệm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và tiến tới cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 .

59 59

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TẠO NHIỀU VIỆC LÀM VÀ VẤN ĐỀ CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG

(Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội )

Đảng bộ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được Đảng và Nhà nước giao nhiệm vụ nghiên cứu chính sách quản lý về lĩnh vực lao động - thương binh và xã hội , một lĩnh vực mang tính tổng hợp về kinh tế, chính trị và xã hội . Trong 5 năm vừa qua , thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước , Ban cán sự đã lãnh đạo cán bộ , đảng viên không ngừng nâng cao nhận thức , tinh thần trách nhiệm , lao động sáng tạo và phát huy sức mạnh của cả Đảng bộ cùng nhân dân phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ và các chỉ tiêu về lao động , việc làm , dạy nghề , xuất khẩu lao động , cải thiện đời sống của người có công , xoá đói , giảm nghèo , v.v .. Ban cán sự Bộ đã tập trung vào tổ chức nghiên cứu quán triệt các văn kiện , nghị quyết của Đại hội Đảng , của Ban Chấp hành Trung ương . Trên cơ sở đó , nghiên cứu để xây dựng , ban hành hoặc tham mưu trình Quốc hội , Chính phủ ban hành về cơ chế , chính sách , luật pháp và tổ chức thực hiện , được cuộc sống chấp nhận và đông đảo nhân dân hưởng ứng . Các kết quả nổi bật là , trong 5 năm , cả nước đã dạy nghề cho 5,3 triệu người ; tạo việc làm mới cho 7,5 triệu lao động ; 85 % gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn

60

mức sống trung bình của dân cư nơi cư trú ; xoá đói , giảm nghèo về trước chỉ tiêu 1 năm và đạt mục tiêu thiên niên kỷ sớm hơn ; các đối tượng chính sách xã hội (người già cô đơn , người tàn tật , trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ... ) được hỗ trợ và hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng . Những kết quả trên đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, giữ vững và ổn định chính trị , an sinh xã hội , kiên định con đường xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới . Tại Đại hội này , tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chỉ tập trung vào các biện pháp nhằm tạo nhiều việc làm và cải cách chính sách tiền lương . Việc làm là một trong những vấn đề xã hội cơ bản lâu dài , nhưng cũng là vấn đề bức xúc nhất hiện nay ở nước ta . Phát triển nguồn nhân lực , tạo việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người , phát triển kinh tế , lành mạnh xã hội , đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân ta . Quán triệt quan điểm của Đảng, coi con người là vốn quý nhất , đầu tư cho con người , cho phát triển nguồn nhân lực là đầu tư cho phát triển ; giải phóng sức sản xuất , sức lao động và phát huy cao nhất nguồn lực con người , lực lượng lao động xã hội , khuyến khích phát triển sản xuất , làm giàu hợp pháp , tạo nhiều việc làm , nâng cao chất lượng lao động là khâu đột phá , chính vì vậy , việc Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật kinh tế (Luật đầu tư , Luật doanh nghiệp , Luật hợp tác xã , Luật thuế , Luật thương mại , Luật đất đai ... ) , Bộ luật lao động và các văn bản hướng dẫn đã tạo sân chơi bình đẳng, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, tạo nhiều việc làm và mọi người lao động có cơ hội tự tạo việc làm ; lao động làm việc với cơ cấu ngành nghề đa dạng , đặc biệt là dịch vụ phát triển , nhờ đó đã khắc phục một bước tình trạng thất nghiệp ở thành thị , thiếu việc làm ở nông thôn , nâng cao hiệu quả và chất lượng việc làm , thu nhập và đời sống người lao động . Trong giai

61

đoạn 2001-2005 , trong tổng số chỗ làm việc mới thì 75 % từ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội , 25% từ chương trình mục tiêu quốc gia hỗ trợ việc làm và đưa trên 295 ngàn lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và hiện nay có hơn 400 ngàn người đang làm việc ở 40 quốc gia và vùng lãnh thổ, hàng năm chuyển thu nhập về gia đình khoảng 1,5 - 1,6 tỷ USD . Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị có xu hướng giảm từ 6,28 % năm 2001 xuống còn 5,31 % vào năm 2005. Dạy nghề được phục hồi và phát triển mạnh theo nhu cầu thị trường lao động trong nước và xuất khẩu . Đến hết năm 2005 , cả nước có 236 trường dạy nghề , 404 trung tâm dạy nghề , hơn 1.000 cơ sở đào tạo tham gia dạy nghề , cơ bản khắc phục tình trạng trắng trường dạy nghề ở một số tỉnh . Quy mô tuyển mới dạy nghề đạt trên 1,2 triệu học sinh /năm , trong đó 20 % là dài hạn . Thị trường lao động hình thành và phát triển , trước hết là ở các vùng kinh tế trọng điểm , đến năm 2005 , lao động làm công ăn lương chiếm 25,6% (khoảng 11 triệu lao động trong tổng số 42 triệu lao động) . Tuy nhiên , việc làm cho người lao động , nhất là đối với thanh niên , vẫn rất bức xúc . Hàng năm , có khoảng trên 1 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động có nhu cầu tìm việc làm ; tỷ lệ thất nghiệp trong thanh niên còn cao , năm 2005 là 13,4 % (ở lứa tuổi 1524 tuổi ) ; chuyển dịch cơ cấu lao động rất chậm , hiện nay tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn chiếm 56,8 % ; tạo việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp cho nông dân ở vùng có chuyển đổi mục đích sử dụng đất còn rất khó khăn ; năng suất lao động rất thấp , thấp hơn từ 2 đến 15 lần so với một số nước trong khu vực ASEAN . Mức đầu tư bình quân cho một chỗ việc làm thấp và chênh lệch lớn (doanh nghiệp dân doanh là 43 triệu đồng/ 1 lao động ; doanh nghiệp nhà nước là 137 triệu đồng/ 1 lao động ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 274 triệu đồng/ 1 lao động) , trình độ nghề nghiệp của

62

lao động còn thấp , lao động qua đào tạo nghề mới đạt 19% ; thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật có trình độ cao theo yêu cầu của thị trường lao động trong nước ; thị trường lao động phát triển còn ở trình độ thấp và chưa đồng đều giữa các vùng nên lợi thế của lao động Việt Nam rất thấp . Giai đoạn 2006-2010 , yêu cầu đặt ra là phải giải quyết việc làm cho gần 50 triệu lao động , trong đó , phải tạo việc làm mới cho 8 triệu lao động , bình quân mỗi năm 1,6 triệu lao động , giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống dưới 5 % và tỷ lệ thiếu việc làm ở nông thôn xuống dưới 6% vào năm 2010. Đây là một thách thức rất lớn nhưng cũng sẽ là thế mạnh về nguồn nhân lực . Nếu chúng ta huy động và sử dụng tiết kiệm , có hiệu quả cao nguồn nhân lực này thì sẽ là nhân tố quyết định cho sự tăng trưởng kinh tế , cải thiện đời sống , thúc đẩy sự bình đẳng , làm lành mạnh xã hội , đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân . Để đạt được yêu cầu đó , cần phải thực hiện tốt các giải pháp , đó là : a . Tiếp tục hoàn thiện các chính sách về lao động - việc làm định hướng xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tiếp tục hoàn thiện cải cách hành chính . Trước hết là đơn giản hoá các thủ tục hành chính , công khai hoá và thực hiện đúng trách nhiệm , quyền hạn của cơ quan nhà nước có thẩm quyền ; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật đối với mọi người lao động , mọi doanh nghiệp , mọi nhà đầu tư ; tiếp tục sửa đổi , bổ sung Bộ luật lao động phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội , trong đó phải xây dựng một số dự án luật như, Luật bảo hiểm xã hội , Luật dạy nghề , Luật xuất khẩu lao động , Luật về giải quyết tranh chấp lao động liên quan đến đình công và giải quyết đình công hướng vào bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động , đồng thời tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người sử dụng lao động thu hút nhiều lao động ; tổ chức thực hiện có hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về việc

63

làm ; chương trình dạy nghề ; chương trình xuất khẩu lao động , tăng tỷ lệ lao động xuất khẩu đã qua đào tạo nghề . b . Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế và toàn xã hội thông qua thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước , tham gia giải quyết việc làm , tạo thêm việc làm , có chính sách ưu tiên , hỗ trợ , tăng mức đầu tư cho 1 lao động trong các loại hình doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động . Đây là nhân tố rất quan trọng đưa công nghệ tiên tiến vào sản xuất , kinh doanh và sử dụng lao động có trình độ kỹ thuật , chất xám cao , theo kịp năng suất lao động của các nước trong khu vực và tạo lợi thế cho lao động Việt Nam trên thị trường . c. Khi quy hoạch , xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung cũng như khi quy hoạch , xây dựng kế hoạch phát triển các khu chế xuất , khu công nghiệp , khu kinh tế , khu đô thị , Nhà nước phải hết sức coi trọng việc đầu tư để tái tạo việc làm tại chỗ , dạy nghề , chuyển đổi nghề cho nông dân ở vùng có chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp . d . Ban Chấp hành Trung ương Khoá X cần có một kỳ họp bàn về phát triển , sử dụng nguồn nhân lực trong 5 năm tới . Tiền lương , tiền công và thu nhập của người lao động liên quan trực tiếp đến đời sống của hàng triệu người . Thực hiện chính sách tiền lương đúng sẽ trở thành động lực phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế , ổn định chính trị - xã hội , thực hiện tốt hơn công bằng xã hội , nâng cao hiệu lực , hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước , đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá , và hội nhập kinh tế quốc tế . Trong 5 năm qua , quán triệt quan điểm của Đại hội Đảng lần thứ IX , xác định "kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế , đồng thời phân phối theo mức độ đóng góp vào sản xuất ,

64

kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội" , các nghị quyết của Trung ương , đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 8 về tiếp tục cải cách chính sách tiền lương, Ban cán sự đảng của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã tham mưu trình Nhà nước ban hành hệ thống các văn bản về cải cách chính sách tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp , kể từ cuộc cải cách tiền lương năm 2003 đã giải quyết được một số vấn đề hết sức cơ bản là : tách tiền lương khu vực sản xuất , kinh doanh ra khỏi khu vực hành chính , sự nghiệp ; điều chỉnh mức lương tối thiểu làm cơ sở để hình thành giá tiền công trên thị trường lao động ; mở rộng bội số tiền lương , khắc phục tính bình quân trong phân phối ; thực hiện tính đúng, tính đủ tiền lương theo thị trường để xác định đơn giá tiền lương, tiền công, chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm ; giao quyền chủ động cho doanh nghiệp trong việc trả lương cho người lao động trên cơ sở năng suất , chất lượng, hiệu quả ; không hạn chế mức thu nhập tối đa đối với lao động chuyên môn , kỹ thuật cao , các tài năng có nhiều cống hiến công sức vào hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp . Tiền lương và thu nhập của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp nhìn chung đã có sự cải thiện đáng kể . Năm 2005 , tiền lương bình quân trong doanh nghiệp nhà nước đạt 2 triệu đồng / tháng , gấp 2 lần so với năm 2000 , những doanh nghiệp có hiệu quả , lao động giỏi mức lương bình quân đạt 8-10 triệu đồng/tháng, cao hơn từ 4-5 lần so với mức bình quân chung ; trong các doanh nghiệp dân doanh , tiền lương bình quân năm 2005 đạt 1,5 triệu đồng /tháng, gấp 2,2 lần so với năm 2000 , những người có trình độ chuyên môn , kỹ thuật cao tiền lương gấp 5-6 lần so với mức tiền lương trung bình ; trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mức tiền lương bình quân năm 2005 đạt 2,2 triệu đồng / tháng, gấp 1,5 lần so với năm 2000 ; lao động quản lý , lao động có

65

trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, tiền lương gấp 20-30 lần so với mức lương trung bình . Tuy nhiên , chính sách tiền lương , tiền công hiện nay còn nhiều tồn tại cần phải tiếp tục sửa đổi , bổ sung, hoàn thiện , đó là : tiền lương trong công ty nhà nước chưa thực sự gắn với thị trường lao động , gắn với năng suất lao động và hiệu quả ; chưa thu hút và khuyến khích những người có tài , có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao ; chưa có cơ chế giám sát các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước thực hiện chính sách tiền lương theo luật định , vẫn có tình hình là mức tiền công bị ép , dẫn đến một bộ phận không nhỏ người lao động có thu nhập thấp , đời sống rất khó khăn đã và đang trở thành một trong những nguyên nhân chủ yếu phát sinh các tranh chấp lao động, có lúc , có nơi rất gay gắt ; chưa thống nhất được mức lương tối thiểu giữa các loại hình doanh nghiệp và chưa thực hiện việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu theo đúng quy định của pháp luật lao động, cũng đang là những vấn đề liên quan đến thực hiện sự công bằng xã hội , bảo đảm đời sống vật chất , tinh thần và sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp ; chưa có cơ chế điều tiết hợp lý thu nhập giữa ngành nghề có nhiều lợi thế , vùng kinh tế trọng điểm với những ngành nghề không có lợi thế và vùng kinh tế khác . Từ thực tiễn , chúng tôi cho rằng , trong giai đoạn 2006-2010 , vấn đề cải cách chính sách tiền lương nói chung và khu vực làm công ăn lương phải tiếp tục thực hiện theo cơ chế thị trường. Tiền công phải thực sự hình thành trên thị trường lao động , bảo đảm trả lương đúng giá trị lao động theo quan hệ cung - cầu trên thị trường , phải tạo điều kiện và môi trường để thực hiện quyền của người lao động , quyền tự chủ thực sự của doanh nghiệp theo luật định ; bảo đảm sự thống nhất và bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp ; điều tiết hợp lý những người có thu nhập cao ; khắc

66

phục chênh lệch bất hợp lý về tiền lương , thu nhập do lợi thế về ngành , nghề , khu vực kinh tế ; thực hiện tốt hơn hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế kết hợp với phân phối theo mức độ đóng góp vào sản xuất , kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội . Để đạt được các yêu cầu đó cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau : a . Tiếp tục hoàn thiện cơ chế , chính sách tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp , trong đó tập trung vào việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương , thu nhập đối với công ty nhà nước , kể cả doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi hình thức sở hữu ; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh ; thực hiện lộ trình điều chỉnh tiền lương tối thiểu chung để tiến tới áp dụng thống nhất một mức lương tối thiểu chung trong các loại hình doanh nghiệp vào khoảng năm 2009 . b . Triển khai nghiên cứu , xây dựng trình Chính phủ ban hành một số chính sách liên quan đến năng suất lao động và hội nhập quốc tế , như dự án về xây dựng luật tiền lương tối thiểu ; dự án về thực hiện nghị định hàng rào kỹ thuật thương mại ; dự án hoàn thiện cơ chế , chính sách và giải pháp bảo đảm hài hoà quan hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2006-2015 ; thực hiện đổi mới đồng bộ các chính sách liên quan đến tiền lương như chính sách nhà ở , chính sách bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế , chính sách tài chính doanh nghiệp . c . Nâng cao năng lực thanh tra , giám sát các doanh nghiệp trong việc thực hiện chính sách tiền lương theo luật định nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng , hợp pháp của người lao động . d . Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính , thực hành tiết kiệm , chống lãng phí trong sử dụng các nguồn lực ; từng bước thực hiện công khai thu nhập cá nhân và điều tiết thu nhập cá nhân thông qua thuế thu nhập cá nhân .

67

Kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được về lao động việc làm và tiền lương trong 5 năm qua , chúng tôi tin tưởng rằng trong 5 năm tới , dưới ánh sáng của các chủ trương, đường lối của Đại hội X và sự lãnh đạo của Đảng, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội cả nước sẽ phát huy cao độ tinh thần cách mạng, sự sáng tạo và đoàn kết , thống nhất , quyết tâm thực hiện hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao , góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội , không ngừng cải thiện đời sống vật chất , tinh thần của người lao động và toàn xã hội .

68

THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN

GẮN VỚI BẢO ĐẢM QUỐC PHÒNG, AN NINH

( Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Thuỷ sản )

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX trình bày tại Đại hội về phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 đã chỉ ra : " Phát triển mạnh kinh tế biển vừa toàn diện , vừa có trọng tâm , trọng điểm với những ngành có lợi thế so sánh để đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng , an ninh và hợp tác quốc tế " . Su phát triển như vậy phải dựa trên thế mạnh và việc phát huy lợi thế của biển nước ta trong bối cảnh cụ thể của khu vực biển Đông , cũng như việc bảo đảm lợi ích quốc gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . Nhận thức rõ vị trí chiến lược của biển đối với kinh tế và an ninh quốc phòng , Đảng ta đã sớm có những chủ trương , chính sách đúng đắn và nhất quán qua các thời kỳ về vấn đề này . Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập , ý thức của dân tộc Việt Nam về biển đã được hội tụ trong câu nói bất hủ của Bác Hồ : "Biển bạc của ta do nhân dân ta làm chủ " khi Người về thăm làng cá Tuần Châu (Quảng Ninh) và Cát Bà (Hải Phòng) vào dịp cuối tháng 3 đầu tháng 4-1959 . Về mặt chủ trương , tiếp sau Hiến pháp nước ta năm 1992 sửa

69

đổi (Điều 1 ) khẳng định chủ quyền và quyền chủ quyền của nước ta trên biển , Bộ Chính trị ( ngày 6-5-1993) đã ra Nghị quyết 03NQ/TW về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển . Nghị quyết này đã chỉ rõ : "Vị trí và đặc điểm địa lý của nước ta cùng với bối cảnh phức tạp trong vùng vừa tạo điều kiện, vừa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái biển . Phấn đấu trở thành một nước mạnh về kinh tế biển" . Ý chí đó tiếp tục được Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII ( tháng 7-1996) xác định : " Vùng biển và ven biển là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng , có nhiều lợi thế phát triển và là cửa mở lớn của cả nước để đẩy mạnh giao lưu quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Khai thác tối đa tiềm năng và các lợi thế của vùng biển và ven biển , kết hợp với an ninh , quốc phòng , tạo thế và lực để phát triển mạnh kinh tế - xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc" . Ngày 22-9-1997 , Bộ Chính trị tiếp tục ra Chỉ thị 20 - CT/TW về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá và nêu rõ : " Vùng biển , hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lược có vị trí quyết định đối với sự phát triển của đất nước , là tiềm năng và thế mạnh cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá. Cần đặt kinh tế biển trong tổng thể kinh tế cả nước , trong quan hệ tương tác với các vùng và trong xu thế hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới" . Đến Đại hội Đảng lần thứ IX , Đảng ta đã xác định mục tiêu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển và hải đảo , phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu km ? thềm lục địa , đề ra hàng loạt phương hướng và giải pháp tiến ra biển khơi và nhấn mạnh : " Phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược của kinh tế biển kết hợp với bảo vệ vùng biển ..." . Các quan điểm

chỉ đạo nói trên không chỉ khẳng định vị trí , vai

trò to lớn của biển và kinh tế biển đối với sự phát triển đất nước ,

70

mà còn là nguyên nhân của mọi thành tựu phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm an ninh , quốc phòng vùng biển Tổ quốc thời gian qua . Cụ thể là : - Đã có sự mở rộng quy mô không gian kinh tế biển , chuyển đổi cơ cấu các ngành kinh tế biển và xuất hiện một số ngành nghề mới theo hướng " vươn khơi" . Nhiều ngành kinh tế biển đã có mức tăng trưởng khá , quy mô tăng nhiều lần so với năm 1993 . - Đến nay cũng đã bước đầu hình thành các trung tâm phát triển kinh tế ven biển , vai trò kinh tế đảo cũng tăng lên rõ rệt , nhiều đảo đã phát triển mạnh nghề cá gắn với du lịch ... Tương lai , một số đảo có thể trở thành trung tâm phát triển kinh tế biển tổng hợp . - An ninh , quốc phòng trên biển tiếp tục được giữ vững ; ý thức về an ninh , quốc phòng của các ngành và địa phương , cũng như của người dân được nâng lên rõ rệt ; đã đàm phán phân định ranh giới vùng biển và quy định vùng đánh cá chung tạm thời ở biển với Trung Quốc ,... Công tác điều tra cơ bản tài nguyên và môi trường biển đã được chú ý tốt hơn , bước đầu cung cấp luận cứ cho hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế biển . Mặc dầu vậy , trình độ khai thác và quản lý biển của nước ta còn lạc hậu so với các nước trong khu vực , chưa quan tâm đến giá trị dịch vụ - đặc thù của các ngành kinh tế biển . Cho nên , không gian kinh tế biển mới chỉ bó hẹp trong phạm vi vùng biển quốc gia , thậm chí ven bờ , chưa chuẩn bị đủ điều kiện để vươn khơi và viễn dương trong tương lai gần . Chậm nghiên cứu xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển nên các ngành , địa phương còn thiếu căn cứ để quy hoạch và triển khai đầu tư . Quản lý nhà nước về biển thiếu thống nhất , còn chồng chéo và chưa liên ngành . Cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế biển ở nước ta còn yếu kém , phương tiện khai thác lạc hậu , rủi ro thiên tại còn cao . Các

71

sản phẩm từ biển chủ yếu vẫn là sản phẩm thô , sức cạnh tranh chưa cao ; một số dạng tài nguyên biển và lợi thế của biển chưa được nghiên cứu đầy đủ và chưa khai thác đúng mức . Các trung tâm kinh tế ven biển và đảo tuy đã bắt đầu , nhưng phát triển chậm và chưa tập trung đầu tư cho một số trung tâm đại diện cho vùng có lợi thế để nhanh chóng phát huy hiệu quả . Trong quá trình phát triển đã bộc lộ sự chia cắt nguồn lực và thiếu quản lý tổng hợp , liên ngành giữa các ngành kinh tế biển chủ chốt : dầu khí ( sử dụng tài nguyên không tái tạo) , thuỷ sản (tài nguyên tái tạo) , hàng hải và du lịch biển (sử dụng tài nguyên phi vật thể) . Việc mở rộng khai thác dầu khí đã thu hẹp vùng khai thác hải sản , phát triển mạnh du lịch đã thu hẹp vùng nuôi trồng thuỷ sản và các cơ sở hạ tầng nghề cá ven biển và các đảo ... Hoạt động đầu tư nước ngoài cho phát triển các ngành / lĩnh vực kinh tế biển còn nhiều hạn chế, chậm " mở cửa " đã ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng nhanh của kinh tế biển . Đến nay , mới chỉ có hợp tác trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí . Quy mô phát triển kinh tế biển chưa tương xứng với tiềm năng , chỉ bằng 1/7 của Hàn Quốc , 1/20 của Trung Quốc , 1/94 của Nhật Bản , 1/260 của thế giới . Những tồn tại trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến chính mục tiêu phát triển lâu dài của vùng biển và kinh tế biển , chưa thể hiện rõ là động lực cho sự phát triển kinh tế quốc gia ở vị trí cửa ngõ của hội nhập . Đồng thời , làm giảm khả năng hỗ trợ từ phía các ngành kinh tế biển cho mục đích bảo đảm an ninh , quốc phòng trên biển , như : thiếu nguồn lực bảo đảm cho một nền quốc phòng hiện đại và vững chắc , thiếu nền tảng để hình thành thế trận an ninh , quốc phòng hiện đại ven biển và trên các đảo , thiếu lực lượng hỗ trợ thường xuyên cho mục đích an ninh , quốc phòng trên biển ... Chủ trương gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh , quốc phòng trên biển là hết sức đúng đắn , mang tính nhất quán trong

72

các văn kiện của Đảng , mang tính thực tiễn trong bối cảnh của một khu vực địa chính trị cực kỳ nhạy cảm . Đối với một quốc gia còn nghèo , thì để bảo đảm sức mạnh an ninh , quốc phòng trên biển , càng cần kết hợp với phát triển kinh tế biển . Tuy nhiên , quá trình triển khai thiếu cụ thể , thiếu đầu tư tương xứng, hoặc đầu tư chưa " tới ngưỡng "

để nhanh chóng xây dựng một nền quốc

phòng trên biển chính quy , hiện đại thông qua một nền kinh tế biển hiệu quả và bền vững . Đặc biệt là thiếu các giải pháp cụ the và mô hình ra biển thử nghiệm mang tính liên hoàn trên cơ sở gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh , quốc phòng trên biển và dải ven biển . Phát triển mạnh kinh tế biển và bảo đảm tốt an ninh , quốc phòng trên biển Đông đòi hỏi phải huy động tối đa lực lượng lao động của các ngành kinh tế biển mà bản chất của họ rất khác nhau . Trên thực tế , biển chỉ là con đường đi qua của các thuỷ thủ , là nơi làm việc tập trung dài ngày của công nhân giới hạn trên các dàn khoan dầu khí , là nơi vãng lai ngắn ngày của du khách ở ven biển và một số đảo ven bờ, nhưng lại là không gian sống của ngư dân . Phát triển một nền kinh tế biển mạnh theo đúng nghĩa của nó đòi hỏi không chỉ giải quyết hoặc chạy theo chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần , mà điều rất quan trọng phải là giải quyết cho được các vấn đề xã hội bức xúc của người lao động biển nói chung và lao động nghề cá nói riêng, cũng như bảo vệ môi trường - sinh thái và nguồn lợi biển . Trong số các ngành kinh tế biển , vừa qua thuỷ sản không chỉ giữ vững là một ngành kinh tế biển truyền thống , mà còn phát triển thành một ngành kinh tế sản xuất hàng hoá lớn và đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian tới , cần quan tâm phát huy lợi thế của một ngành kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên tái tạo , có lực lượng lao động và dự trữ lao động dồi dào (khoảng 20 triệu người sống trong 115 huyện ven biển và các đảo) , có khả

73

năng bám biển dài ngày và có mặt trên khắp vùng biển . Họ là lực lượng bổ sung cho các hoạt động kinh tế biển khác và cũng là lực lượng không thể thay thế cho một thế trận " chiến tranh nhân dân " trên biển Đông , góp phần dân sự hoá các hoạt động trên biển , gắn thuỷ sản với sự nghiệp bảo vệ an ninh , quốc phòng trên vùng biển của Tổ quốc . Nước ta đi lên từ một nước nghèo , ven biển có 157 xã bãi ngang nghèo nhất , cho nên các ưu tiên phát triển vẫn phải hướng vào việc khai thác , sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên . Thuỷ sản vừa là ngành kinh tế phát triển trên nền tảng của các hệ sinh thái tự nhiên , có khả năng tái tạo , vừa là một trong những ngành kinh tế gắn liền với sinh kế của người dân , có khả năng tốt nhất đối với việc cải thiện sinh kế người nghèo và cuộc sống của người dân sống ở các vùng nông thôn ven biển và hải đảo . Vì thế , giải quyết các vấn đề xã hội cho ngư dân , phát triển các mô hình sản xuất thuỷ sản dựa vào người dân giúp họ thoát nghèo , khuyến khích và tạo điều kiện cho họ tham gia quản lý nghề cá ở địa phương là một nhiệm vụ chính trị quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đang tập trung lãnh đạo nhằm thực hiện chiến lược toàn diện xoá đói giảm nghèo , cũng như tăng cường phát triển kinh tế ở địa phương, kết hợp bảo đảm an sinh xã hội và an ninh vùng biển . Theo cách tiếp cận trên , thời gian tới , ngành thuỷ sản phải chú trọng giải quyết đồng bộ cả ba vấn đề ngư nghiệp , ngư dân và ngư trường trong quá trình phát triển kinh tế thuỷ sản gắn với bảo đảm an ninh , quốc phòng . Để phát triển kinh tế biển nhanh và bền vững gắn với bảo đảm vững chắc an ninh , quốc phòng theo phương châm : "Phát triển kinh tế - xã hội là nền tảng để bảo vệ Tổ quốc; ổn định chính trị , củng cố quốc phòng , an ninh vững mạnh là điều kiện để phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện tốt đường lối đối ngoại , tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội củng cố hoà bình, ổn định để đẩy

74

mạnh phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững chủ quyền , toàn vẹn lãnh thổ , đặc biệt là vùng biển , đảo " , cần phải triển khai một số nhiệm vụ cơ bản sau : · - Khẩn trương hoàn thiện chiến lược phát triển kinh tế biển kết hợp bảo đảm an ninh , quốc phòng làm căn cứ xây dựng và triển khai quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển theo cách tiếp cận tổng hợp , liên ngành trên phạm vi toàn vùng biển và cho từng vùng biển cụ thể . Căn cứ vào đó đầu tư xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng đủ mạnh cho kinh tế biển ; phát triển các dự án tạo mối liên kết liên ngành ; xây dựng luật các vùng biển bảo đảm độc lập và tính toàn vẹn chủ quyền quốc gia , phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về luật biển . Để thực hiện chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển , cần có một hệ thống quản lý nhà nước thống nhất về kinh tế biển , trong đó chú trọng ngành thuỷ sản có tính chất xã hội đặc thù . Gắn phát triển kinh tế biển và ven biển với giải quyết các vấn đề xã hội , từ đó xác định trọng điểm các ngành kinh tế biển phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội đất nước , với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và những biến đổi về nguồn tài nguyên biển trong quá trình khai thác sử dụng . - Ven biển và hải đảo phải trở thành thể thống nhất để phát triển kinh tế - xã hội biển , phát triển dịch vụ khai thác biển xa , tạo thế trận liên hoàn về an ninh , quốc phòng toàn dân trên mọi vùng biển của Tổ quốc . Phải có các chính sách đặc biệt để thu hút sự tham gia của các cộng đồng dân cư ven biển và các đảo trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . · Tăng cường hội nhập quốc tế trong phát triển kinh tế biển để

tranh thủ nâng cao năng lực công nghệ và trình độ quản lý , huy động thêm nguồn vốn cho các dự án phát triển kinh tế biển và phát triển thị trường . Xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh trong

75

các lĩnh vực thuỷ sản , dầu khí, hàng hải , du lịch và các khu kinh tế biển trọng điểm . Đảng và Chính phủ đặt kinh tế biển vào vị trí xứng đáng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước là một hướng đi đúng nhằm phát huy lợi thế của một quốc gia có biển . Sự phát triển của kinh tế biển chính là tạo cơ hội thu hút đầu tư và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Sự phát triển như vậy không tách rời đường lối kinh tế chung của Đảng và phải gắn với bảo đảm an ninh , quốc phòng một cách hiệu quả trong thời gian tới .

76

NGÀNH THỂ DỤC THỂ THAO TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÁC HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO , GÓP PHẦN CHĂM SÓC SỨC KHOẺ NHÂN DÂN , PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ , HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC (Tham luận của Ban cán sự đảng Uỷ ban Thể dục - Thể thao )

Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, trong những năm qua , ngành Thể dục thể thao đã bám sát việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và có nhiều đổi mới trong công tác , qua đó đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng , góp phần tạo nên sự tăng trưởng nhanh và khá ổn định . Kinh tế phát triển khiến cho các nguồn lực đầu tư của Nhà nước cũng như của toàn xã hội cho hoạt động thể dục thể thao đã có sự gia tăng đáng kể . Hệ thống cơ sở vật chất của ngành được mở rộng và nâng cấp , tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động sự nghiệp thể dục thể thao . Bộ máy tổ chức của ngành từ Trung ương đến địa phương được kiện toàn một bước , nhiều thiết chế mới ra đời, giúp cho việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và triển khai các hoạt động sự nghiệp thể dục thể thao có nhiều thuận lợi . Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển sâu , rộng ở các địa bàn và đối tượng dân cư . Cùng với việc triển khai cuộc vận động " toàn dân rèn luyện thân

77

thể theo gương Bác Hồ vĩ đại" và các hoạt động khác do ngành thể dục thể thao phát động , tỷ lệ người dân thường xuyên tập luyện thể dục thể thao và các chỉ tiêu khác đánh dấu mức độ phát triển của phong trào thể dục thể thao tăng đều qua hàng năm . Nếu như năm 1990 cả nước chỉ có khoảng 3 % dân số thường xuyên tham gia các hoạt động thể dục thể thao thì đến năm 2005 , tỷ lệ người tập thể dục thể thao thường xuyên đã đạt 18,3 % trên tổng dân số cả nước . Các hoạt động thể dục thể thao quần chúng đã phát huy tác dụng rõ rệt trong việc nâng cao thể lực , phòng chữa bệnh tật và tạo dựng lối sống mới lành mạnh , năng động, góp phần hạn chế, đẩy lùi các tệ nạn xã hội . Phong trào thể dục thể thao quần chúng phát triển cũng đã góp phần vào việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của quần chúng nhân dân , ổn định trật tự xã hội , an ninh chính trị ở từng địa bàn . Lĩnh vực thể thao thành tích cao trong những năm qua có sự tiến bộ khá rõ nét . Phát huy hiệu quả của chương trình quốc gia về đào tạo tài năng thể thao , trong những năm qua chúng ta đã đào tạo được nhiều thế hệ vận động viên xuất sắc , đóng góp rất nhiều huy chương cho quốc gia và làm cho bảng vàng thành tích của thể thao Việt Nam không ngừng được cải thiện trên các đấu trường thể thao của khu vực , châu lục và thế giới . Từ chỗ chỉ xếp thứ hạng khiêm tốn kể từ khi bắt đầu hội nhập trở lại với đấu trường thể thao khu vực năm 1989 , tới SEA Games 17 (năm 1993) , thể thao Việt Nam đã có sự bứt phá mạnh mẽ để sau đó , khẳng định vị trí ngày càng cao tại các đấu trường quốc tế, đặc biệt là tại SEA Games lần thứ 22 ( Việt Nam xếp thứ nhất toàn đoàn) . Gần đây nhất , tại SEA Games 23 tổ chức ở Philippin , mặc dù gặp nhiều khó khăn , song một lần nữa Việt Nam tiếp tục khẳng định vị trí là một trong 3 quốc gia dẫn đầu về thể thao ở khu vực Đông Nam Á, với sự vươn lên mạnh mẽ của nhiều môn thể thao có thể mạnh , cũng như các môn thể thao Olympic cơ bản . Tại các đấu

78

trường khác , chúng ta cũng có thêm rất nhiều nhà vô địch thế giới , vô địch châu lục trong nhiều nội dung . Thành công của thể thao thành tích cao đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế , đồng thời động viên tinh thần yêu nước của quần chúng nhân dân và kiều bào Việt Nam ở nước ngoài . Thể thao thành tích cao cũng góp phần vào việc mở rộng hội nhập , giao lưu quốc tế theo phương châm " Việt Nam muốn là bạn với tất cả các dân tộc anh em trên toàn thế giới" . Công tác quản lý nhà nước về thể dục thể thao cũng như các hoạt động sự nghiệp của ngành cũng có nhiều đổi mới để thích nghi với cơ chế mới , trong đó nổi bật là việc chú trọng đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động thể dục thể thao và thí điểm thực hiện cơ chế chuyên nghiệp trong thể thao thành tích cao . Thực tế cho thấy , xã hội hoá và chuyên nghiệp hoá là định hướng hết sức đúng đắn , góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động thể dục thể thao nước nhà . Toàn ngành cũng đã tập trung làm tốt công tác đào tạo , quy hoạch xây dựng mạng lưới cơ sở vật chất kỹ thuật, tăng cường công tác nghiên cứu khoa học , quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ để bảo đảm sự phát triển ổn định , vững chắc của sự nghiệp thể dục thể thao trong nhiều năm tới . Những kết quả đạt được kể trên có nhiều nguyên nhân , trong đó nguyên nhân cơ bản là việc ngành Thể dục thể thao đã luôn bám sát và triển khai có hiệu quả các quan điểm , chủ trương của Đảng về phát triển thể dục thể thao trong từng giai đoạn . Chỉ thị 36 - CT/TW , ngày 24-3-1994 , của Ban Chấp Trung ương Đảng về công tác thể dục thể thao trong giai đoạn mới và tiếp sau đó là Chỉ thị 17 - CT/TW , ngày 23-10-2002 , của Ban Bí thư Trung ương về phát triển thể dục thể thao đến năm 2010 là những văn bản quan trọng thể hiện chủ trương , chính sách của Đảng đối với sự nghiệp thể dục thể thao đã được toàn ngành quán triệt , triển khai bằng các đề án , chương trình cụ thể . Về điều hành vĩ mô ,

79

ngành Thể dục thể thao đã phối hợp chặt chẽ với các ngành , đoàn thể ở Trung ương và địa phương để xây dựng các cơ chế , chính sách mới và chỉ đạo phát triển phong trào thể dục thể thao trong từng đối tượng, có trọng tâm , trọng điểm , phù hợp với hoàn cảnh , điều kiện thực tế của đất nước . Kinh tế đất nước phát triển cũng đã tác động trực tiếp , tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các nhiệm vụ chiến lược của ngành Thể dục thể thao trong những năm qua . Tuy nhiên , bên cạnh những kết quả đã đạt được cũng còn một số hạn chế. Các lĩnh vực hoạt động thể dục thể thao tuy đã có đổi mới nhưng còn chậm , Nhà nước vẫn phải bao cấp cho nhiều hoạt động thể dục thể thao . Mặc dù các cơ quan quản lý nhà nước về thể dục thể thao có nhiều cố gắng, song mức độ đáp ứng đối với các nhu cầu tập luyện và thụ hưởng các dịch vụ thể dục thể thao của nhân dân còn thấp . Các điều kiện bảo đảm như cơ sở vật chất , sân bãi , đội ngũ cán bộ , giáo viên và hướng dẫn viên thể dục thể thao vừa thiếu , vừa yếu , chưa đáp ứng yêu cầu đề ra . Dịch vụ thể dục thể thao tuy khá đa dạng nhưng tản mạn , manh mún , chưa tương xứng với tiềm năng và chưa có các cơ chế, chính sách quản lý thích hợp . Thiếu các cơ sở lý luận cũng như các chính sách quản lý nền kinh tế dịch vụ thể dục thể thao ở nước ta , dẫn tới thị trường dịch vụ thể dục thể thao chưa phát triển . Việc gắn kết các hoạt động thể dục thể thao với chăm sóc sức khoẻ nhân dân , phát triển nguồn nhân lực tuy đã đạt được một số kết quả nhất định song còn rất hạn chế , thiếu chiến lược , thiếu các giải pháp đồng bộ để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực tiễn . Công tác giáo dục thể chất trong trường học các cấp còn nhiều yếu kém . Một bộ phận học sinh , thanh thiếu niên thiếu rèn luyện thể lực thường xuyên , dẫn tới phát triển lệch lạc , về lâu dài có thể ảnh hưởng tới chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai . Tiêu cực trong thể thao vẫn còn là vấn đề đáng báo động.

80

Trên cơ sở bám sát các quan điểm , đường lối của Đảng, công tác thể dục thể thao phải tiếp tục có những đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tới , nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng toàn diện các hoạt động thể dục thể thao, góp phần tích cực vào việc chăm sóc sức khoẻ nhân dân , phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước và nâng cao mức độ thoả mãn các nhu cầu thụ hưởng những giá trị văn hoá và dịch vụ thể dục thể thao của quần chúng nhân dân . Các nhiệm vụ trọng tâm được xác định cho giai đoạn công tác sắp tới của ngành thể dục thể thao là : 1. Phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng rộng khắp trong tất cả các đối tượng, địa bàn , theo hướng kết hợp giữa đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ của Nhà nước và các dịch vụ do cơ quan nhà nước cung ứng với việc mở rộng xã hội hoá , tạo các điều kiện thuận lợi để nhân dân chủ động tham gia với hình thức tự nguyện , tự quản trong các hoạt động thể dục thể thao . Đa dạng hóa các mô hình tổ chức hoạt động thể dục thể thao phong trào ở cơ sở , phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, miền , trong đó chú trọng tới vùng đồng bào dân tộc thiểu số , vùng đặc biệt khó khăn và các đối tượng chính sách . Trong những năm tới , Nhà nước cần tiếp tục tập trung triển khai một số chương trình trọng điểm như phát triển thể dục thể thao ở cơ sở xã , phường ; hỗ trợ quy hoạch , xây dựng các công trình , sân bãi thể dục thể thao cho các đối tượng chính sách và người dân ở các vùng có khó khăn ; xây dựng các thiết chế thể dục thể thao , các mô hình điển hình tiên tiến về thể dục thể thao ; đào tạo hướng dẫn viên thể dục thể thao cơ sở ... Đồng thời , có chính sách khuyến khích và hỗ trợ , tạo điều kiện phát triển các mô hình câu lạc bộ thể dục thể thao cộng đồng và các cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập nhằm góp phần gia tăng mức độ cung ứng dịch vụ thể dục thể thao cho quần chúng nhân dân , đáp ứng các nhu cầu đa dạng của toàn xã hội .

81

2. Triển khai tốt các chương trình mục tiêu cấp quốc gia , cấp ngành và các chương trình phối hợp liên ngành , liên vùng về nâng cao thể lực và tầm vóc người dân . Chương trình nâng cao tầm vóc và thể lực người dân trong độ tuổi lao động bằng giải pháp dinh dưỡng và thể dục thể thao sẽ là chương trình thí điểm quan trọng để tiến tới hình thành Chiến lược tổng thể của quốc gia về nâng cao tầm vóc , cải tạo nòi giống . Chương trình này sẽ do ngành Thể dục thể thao phối hợp với ngành Y tế , Giáo dục và Đào tạo , Dân số gia đình và trẻ em triển khai , với mục tiêu đến năm 2030 , cải thiện rõ rệt về thể lực và tầm vóc của người dân Việt Nam , góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . 3. Chấn chỉnh và tăng cường công tác giáo dục thể chất trong trường học các cấp nhằm góp phần bồi dưỡng, hình thành nguồn nhân lực mới có chất lượng , phát triển hài hoà cả về thể lực , trí lực và tâm lực . Ngành Thể dục thể thao kết hợp với ngành Giáo dục và Đào tạo nghiên cứu cải tiến các quy định về giáo dục thể chất nội khoá và hoạt động thể dục thể thao ngoại khoá , quy định về tiêu chuẩn , định mức sân bãi , trang thiết bị thể dục thể thao trong trường học ; phát triển mạng lưới câu lạc bộ thể dục thể thao trong trường học , tạo điều kiện cho thế hệ trẻ được thường xuyên rèn luyện thể dục thể thao , coi thể dục thể thao là một sinh hoạt không thể thiếu trong thanh , thiếu niên , học sinh , sinh viên các cấp . 4. Mở rộng hợp tác quốc tế về thể dục thể thao , tiếp tục hội nhập sâu với phong trào Olympic thế giới , châu lục và khu vực . Thể dục thể thao tiếp tục phát huy lợi thế là lĩnh vực có nhiều thuận lợi để đi đầu trong quá trình hội nhập , tăng cường đoàn kết , hợp tác vì hoà bình , hữu nghị với các quốc gia , các dân tộc anh em trên toàn thế giới . Thông qua các hoạt động hợp tác quốc tế, mở rộng giao lưu tập huấn , thi đấu và tranh thủ sự giúp đỡ

82

của bạn bè quốc tế để đẩy nhanh tốc độ phát triển của thể thao nước nhà . Chuẩn bị tốt các điều kiện cần thiết để đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á trong nhà vào năm 2009 và tiếp tục chuẩn bị xin đăng cai Đại hội Thể thao châu Á (ASIAD ) vào thời điểm thích hợp . 5. Kết hợp giữa tăng cường đầu tư có trọng điểm của Nhà nước với phát huy các nguồn lực xã hội để phát triển thể thao thành tích cao , hướng tới các mục tiêu chiến lược dài hạn tại đấu trường châu lục , thế giới. Thể thao Việt Nam trong giai đoạn tới lấy đấu trường châu lục làm đấu trường chính , bên cạnh việc tiếp tục duy trì vị thế tại đấu trường thể thao khu vực Đông Nam Á . Mục tiêu phấn đấu là từ nay đến năm 2020 , Việt Nam trở thành một trong 10 quốc gia mạnh về thể thao ở châu lục . Tiếp tục đẩy mạnh chuyên nghiệp hoá trong một số môn thể thao có điều kiện , đồng thời chuyển đổi cơ chế , phương thức điều hành các hoạt động thể thao thành tích cao theo hướng đẩy mạnh quá trình chuyển giao các hoạt động tổ chức thi đấu , đào tạo vận động viên từ các cơ quan nhà nước sang cho các tổ chức xã hội và các cơ sở ngoài công lập thực hiện . Nhà nước tập trung đầu tư cho công tác đào tạo vận động viên cấp cao , công tác nghiên cứu khoa học phục vụ nâng cao thành tích thể thao , tổ chức các hoạt động tập huấn , thi đấu cấp đội tuyển và đăng cai tổ chức , tham gia các đại hội thể thao quốc tế . 6. Quy hoạch xây dựng, mở rộng mạng lưới cơ sở vật chất thể dục thể thao trên địa bàn toàn quốc . Nhà nước đầu tư tập trung cho các công trình trọng điểm cấp quốc gia , cấp ngành và cấp tỉnh, thành phố , đồng thời quy hoạch dành đất và có chính sách khuyến khích để xây dựng các công trình thể dục thể thao ở cấp quận , huyện , xã , phường , thị trấn và làng, xóm , thôn , bản. Nâng dần mức độ đáp ứng các chỉ tiêu về đất đai , sân bãi tập trên đầu người dân lên ngang tầm với chỉ tiêu chung của khu vực Đông Nam Á.

83

7. Sắp xếp lại các cơ sở thể dục thể thao công lập ; chuyển dần các cơ sở thể dục thể thao công lập sang mô hình đơn vị sự nghiệp có thu , doanh nghiệp hoạt động dịch vụ hoặc cổ phần hoá , liên kết liên doanh , giao cho tư nhân quản lý , khai thác . Nhà nước chỉ giữ lại các cơ sở thể dục thể thao phục vụ các nhiệm vụ huấn luyện , đào tạo cấp quốc gia , cấp vùng và cấp tỉnh , thành phố và một số cơ sở khác phục vụ các nhiệm vụ chính trị của ngành thể dục thể thao , chuyển mạnh hoạt động của các cơ sở thể dục thể thao từ cơ chế bao cấp sang cơ chế tự chủ trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ . 8. Mở rộng các loại hình dịch vụ thể dục thể thao với nhiều hình thức đa dạng , đáp ứng nhu cầu của mọi đối tượng trong xã hội , trong đó chú trọng tới các loại hình dịch vụ thể thao giải trí , các hoạt động quảng cáo , môi giới thể thao , các hoạt động thi đấu , biểu diễn thể thao có lợi nhuận , nhằm từng bước phát triển thị trường thể dục thể thao ở nước ta , hướng tới đưa thể dục thể thao trở thành một ngành kinh tế dịch vụ có đóng góp xứng đáng trong tăng trưởng kinh tế của đất nước . Đồng thời , tiếp tục duy trì một số hoạt động thể dục thể thao mang tính phúc lợi để đáp ứng nhu cầu của quần chúng nhân dân . 9. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động thể dục thể thao để tăng cường huy động các nguồn lực và tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi của các lực lượng xã hội trong những hoạt động thể dục thể thao . Các cơ quan nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo trong quá trình xã hội hoá , song cần phải chuyển đổi cơ chế , phương thức hoạt động theo hướng : Nhà nước chỉ trực tiếp cung ứng những dịch vụ thể dục thể thao mà xã hội không có khả năng cung ứng hoặc cung ứng không hiệu quả ; các dịch vụ mà xã hội có khả năng cung ứng thì Nhà nước tạo điều kiện cho các tổ chức , cá nhân ngoài công lập thực hiện . Trong giai đoạn tới , tập trung xây dựng , ban hành các cơ chế, chính sách cần thiết để tạo điều kiện

84

thuận lợi cho quá trình xã hội hoá , đồng thời quy hoạch , sắp xếp lại và nâng cao tiềm lực của các tổ chức xã hội về thể dục thể thao , tạo điều kiện để các tổ chức xã hội về thể dục thể thao giữ vị trí , vai trò quan trọng trong tiến trình xã hội hoá . Giảm dần và tiến tới không thực hiện các hoạt động sự nghiệp trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước , chuyển giao các hoạt động này cho các đơn vị sự nghiệp , các tổ chức xã hội thể dục thể thao và các lực lượng xã hội khác thực hiện . Chủ trương đổi mới của Đảng ngày càng tác động sâu sắc tới các lĩnh vực chính trị , kinh tế , xã hội của đất nước , trong đó có lĩnh vực thể dục thể thao . Chỉ thị số 17- CT / TW , của Ban Bí thư Trung ương Đảng Khoá IX đã nêu rõ : " Công tác thể dục thể thao phải góp phần tích cực thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng , an ninh và mở rộng quan hệ đối ngoại của đất nước, trước hết là góp phần nâng cao sức khoẻ , rèn luyện ý chí , giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống và nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho nhân dân ; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân , nâng cao lòng tự hào dân tộc và đẩy lùi tệ nạn xã hội ở từng địa phương " . Ngành Thể dục thể thao phát huy nhiệm vụ chính trị , tiếp tục đổi mới , nâng cao toàn diện chất lượng các mặt công tác , góp phần chăm sóc sức khoẻ nhân dân , bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .

85

ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG Y TẾ THEO HƯỚNG CÔNG BẰNG , HIỆU QUẢ VÀ PHÁT TRIỂN , TẠO ĐIỀU KIỆN CHO MỌI NGƯỜI DÂN ĐƯỢC BẢO VỆ , CHĂM SÓC VÀ NÂNG CAO SỨC KHOẺ ( Tham luận của đồng chí Trần Thị Trung Chiến , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Y tế , đại biểu Đảng bộ

tỉnh Ninh Thuận )

Kể từ khi thành lập đến nay , Đảng ta luôn quan tâm và lãnh đạo công tác bảo vệ , chăm sóc sức khoẻ nhân dân . Đảng ta luôn khẳng định : sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội . Thực hiện đường lối đúng đắn của Đảng, từ sau năm 1954 , mặc dù còn nghèo và trải qua nhiều năm chiến tranh , chúng ta đã từng bước xây dựng được một hệ thống chăm sóc sức khoẻ rộng lớn phục vụ nhu cầu phòng và khám chữa bệnh của đại đa số dân cư . Những thành tựu của sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân cùng với những bước tiến mạnh mẽ của sự nghiệp giáo dục đã từng được coi là hai " bông hoa " đẹp của chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Nhìn lại quá trình đổi mới trong 20 năm qua , chúng ta có thể tự hào trước những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Mức sống của nhân dân đã được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm đáng kể . Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong hơn 10 năm trở lại đây tiếp tục đạt được

86

nhiều thành tựu quan trọng . Tình hình sức khoẻ nhân dân ngày càng được cải thiện và hầu hết các chỉ tiêu tổng quát về sức khoẻ của nước ta đều tốt hơn so với các nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người . Tuy nhiên , trước bối cảnh và những yêu cầu mới của sự phát triển đất nước , ngành Y tế nước ta còn nhiều bất cập và đang đứng trước nhiều thách thức to lớn .

· Hệ thống y tế chậm đổi mới , chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân ; điều kiện chăm sóc y tế cho các đối tượng chính sách , người nghèo , vùng sâu , vùng xa , vùng dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn ... - Cơ cấu bệnh tật đang thay đổi (các bệnh không nhiễm trùng, tai nạn , thương tích ... tăng nhanh , nhiều dịch bệnh mới , bệnh lạ xuất hiện khó lường ), chi phí cho chăm sóc sức khoẻ ngày càng lớn , trong khi về cơ bản , nước ta vẫn còn là một nước nghèo ... Nhiều vấn đề xã hội mới phát sinh cùng với xu hướng gia tăng chênh lệch về thu nhập trong nhân dân đang đặt ra những thách thức lớn về thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khoẻ . Như vậy , việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế đang được đặt ra rất cấp bách , song vấn đề là cần đổi mới theo hướng nào? Chắc chắn là chúng ta không thể tiếp tục duy trì một hệ thống y tế được vận hành theo cơ chế bao cấp như trước đây . Mặt khác , cũng không thể để cho hệ thống y y tế hoàn toàn bị chi phối bởi cơ chế thị trường , vì như vậy sẽ tác động mạnh tới những người có thu nhập thấp , đặc biệt là các gia đình chính sách , người nghèo , trẻ em ... Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng đã chỉ rõ quan điểm chỉ đạo và đường lối phát triển của ngành Y tế là : "Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển , tạo điều kiện cho mọi người dân được chăm sóc và nâng cao sức khoẻ " .

87

Chúng tôi hoàn toàn tán thành với quan điểm chỉ đạo nêu trên và xin đóng góp thêm một số ý kiến như sau : 1. Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội . Vì vậy , đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng , hiệu quả và phát triển không chỉ là đường lối cơ bản , lâu dài , một vấn đề lớn có ý nghĩa sống còn , bảo đảm cho lĩnh vực y tế phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện được mục tiêu cao cả của mình là bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ cho mọi người dân , mà còn là một nội dung của đường lối đổi mới và phát triển đất nước , là yếu tố quan trọng để thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, như Đảng ta đã khẳng định . 2. Công bằng trong chăm sóc sức khoẻ có những tiêu chí hoàn toàn khác với công bằng trong kinh tế , do đó không thể áp dụng cơ chế thị trường một cách máy móc , không thể gắn khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cơ bản với khả năng chi trả . Nếu trong kinh tế , công bằng là " phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác" , thì công bằng trong lĩnh vực y tế hoàn toàn không phải như vậy , không có nghĩa là ai đau ốm nhiều thì phải trả nhiều tiền . Trước đổi mới , công bằng được quan niệm là mọi người đều được hưởng các dịch vụ y tế miễn phí , mà thực chất là cào bằng trong phân phối . Và nếu hiểu như vậy thì trong điều kiện đất nước còn nghèo , chúng ta không thể nào thực hiện được . Các nhà kinh tế học đã xác định các dịch vụ y tế cơ bản là loại " hàng hoá công cộng " hay "hàng hoá công ích " , mà mọi người dân đều có quyền được cung ứng ở mức quy định . Các dịch vụ này sẽ đem lại lợi ích cho cả cộng đồng , ví dụ phòng chống lao , sốt rét , cung cấp nước sạch ... Những người sử dụng dịch vụ theo " yêu cầu " cao hơn mức quy định thì phải trả thêm tiền . Như vậy , trong điều

88

kiện hiện nay , công bằng trong y tế là bảo đảm cho mọi người dân được tiếp cận và sử dụng những dịch vụ y tế cơ bản, phù hợp với khả năng kinh tế và trình độ phát triển của đất nước . 3. Công bằng của hệ thống y tế phải đi đôi với hiệu quả và phát triển , thể hiện ở hiệu quả của các nguồn đầu tư cho hệ thống y tế và việc thực hiện các mục tiêu y tế , trình độ của nền y học và tính hiện đại của các phương tiện kỹ thuật và khả năng chuyên môn trong bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân . 4. Trong những năm trước mắt , để đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng , hiệu quả và phát triển , tạo điều kiện cho mọi người dân chăm sóc và nâng cao sức khoẻ, cần tập trung xây dựng và thực hiện các chính sách sau : ( 1 ) Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế , nhất là mạng lưới y tế cơ sở , đưa các kỹ thuật y tế đến gần dân ; đổi mới cơ chế hoạt động của bệnh viện ; đổi mới chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, nhân viên y tế ...; (2) Tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công trong tổng chi tiêu y tế quốc gia , giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh ; ( 3) Thực hiện tốt việc trợ giúp cho các đối tượng chính sách , người nghèo , vùng sâu , vùng xa , vùng dân tộc thiểu số trong chăm sóc và nâng cao sức khoẻ . Chúng tôi xin trình bày và kiến nghị một số nội dung cụ thể về các định hướng chính sách nói trên như sau : 1. Củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế, nhất là mạng lưới y tế cơ sở , đưa các kỹ thuật y tế đến gần dân; đổi mới cơ chế hoạt động của bệnh viện; đổi mới chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, nhân viên У y tế... Trong nhiều năm qua , chúng ta đã phát triển được một mạng lưới y tế rộng khắp trong cả nước , trở thành nhân tố quyết định những thành công trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân . Hệ thống y tế dự phòng từ trung ương đến địa phương được củng cố , không để dịch lớn xảy ra . Làm giảm hẳn tỷ lệ mắc và tử vong

89

do các bệnh lây truyền thành dịch , chặn đứng sự bùng nổ dịch sốt rét , so với năm 1991 số tử vong vì sốt rét đã giảm tới 100 lần . Năm 2000 , Việt Nam là nước đầu tiên trong khu vực được Tổ chức Y tế thế giới công nhận đã thanh toán được bệnh bại liệt , khống chế được bệnh phong ; năm 2003 , Việt Nam là nước đầu tiên trên thế giới khống chế thành công dịch SARS ; năm 2004 và 2005 , nhanh chóng khống chế dịch cúm A ( H5N1 ) ở người ; năm 2005 , chúng ta lại được Tổ chức Y tế thế giới công nhận đã loại trừ được uốn ván ở trẻ sơ sinh ... Hệ thống cung ứng dịch vụ y tế ngày càng đa dạng, cả công và tư , có đầy đủ các chuyên ngành và loại hình . Nhiều kỹ thuật chẩn đoán , điều trị đã được ứng dụng thành công như : phẫu thuật tim hở , thay van tim , bắc cầu mạnh vành , nối chi , ghép thận , ghép gan , thụ tinh trong ống nghiệm , phẫu thuật sọ não bằng dao mổ gamma ... nhiều kỹ thuật đạt trình độ tương đương các nước tiên tiến trên thế giới và khu vực . Tuy nhiên , hệ thống cung cấp dịch vụ y tế hiện nay vẫn đang còn nhiều bất cập , cần phải được nhìn nhận đầy đủ để có biện pháp khắc phục . Đó là hiệu quả hoạt động và chất lượng dịch vụ chưa cao ; các bệnh viện từ tuyến trung ương đến tuyến tỉnh , thậm chí cả tuyến huyện thường xuyên trong tình trạng quá tải ; tình trạng người dân tự mua thuốc để điều trị còn rất cao , chiếm khoảng 70 % tổng chi cho y tế hàng năm của hộ gia đình ; y tế tư nhân phát triển nhanh nhưng quy mô nhỏ , chủ yếu là cung cấp các dịch vụ khám , chữa bệnh ngoại trú . Nhiều vấn đề về phát triển y tế công cộng , đổi mới tổ chức , quản lý và nâng cao hiệu quả của hệ thống cung cấp dịch vụ y tế , tăng cường vai trò của y tế tư nhân và sự phối hợp giữa y tế tư nhân và y tế nhà nước ... đang được đặt ra , cần giải quyết . 2. Đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính y tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các nguồn tài chính công (bao gồm ngân sách

90

nhà nước , bảo hiểm y tế) , giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh . Điều này đã được khẳng định tại Nghị quyết số 46 - NQ/TW của Bộ Chính trị "Về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân trong tình hình mới". Hiện nay , hầu hết các nước trên thế giới đều đánh giá tính công bằng của hệ thống y tế bằng tiêu chí về tỷ trọng của các nguồn chi tiêu công cho y tế trong tổng chi tiêu y tế. Theo báo cáo Tài khoản y tế quốc gia năm 2000 , chi tiêu công cho y tế của ta chỉ ở mức gần 30 % tổng chi tiêu y tế quốc gia , tức là chưa đạt được tiêu chí công bằng về tài chính y tế . Các chỉ số khác về tài chính công cho y tế của ta cũng còn thấp . Để tăng tỷ trọng chi tiêu công trong tổng chi tiêu y tế , nâng cao tính công bằng của hệ thống y tế , phải giải quyết ba vấn đề lớn có liên quan với nhau , đó là : - Từ nay đến năm 2010 , Nhà nước cần đầu tư mạnh , tạo bước bứt phá để nâng cấp , củng cố , hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở , y tế dự phòng , các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh , tuyến huyện ; các trung tâm y tế khu vực , nhất là ở Tây Nguyên , miền núi phía Bắc , miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long . Tăng mức đầu tư ngân sách nhà nước cho y tế đến năm 2010 đạt ít nhất 10 % tổng chi ngân sách nhà nước để nâng cấp các cơ sở y tế , đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở , cung cấp kinh phí khám chữa bệnh cho người có công với cách mạng , người nghèo , trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách xã hội . Ngân sách nhà nước chi cho y tế hiện đạt khoảng 7 % tổng chi ngân sách nhà nước với mức chi tiêu công cho y tế tính theo USD trên đầu người là 6 USD , chỉ bằng 1/2 so với mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới đối với một quốc gia đang phát triển để cung cấp gói dịch vụ y tế cơ bản cho người dân là 12 USD . Theo Báo cáo đánh giá chi tiêu công của nhóm các nhà tài trợ cho Việt Nam ( WB , 2005 ) , tỷ lệ chi Ngân sách nhà nước cho y tế so với GDP của Việt Nam năm 2002 là

91

1,61 % , thấp hơn nhiều so với mức trung bình của các nước có thu nhập thấp và vừa là 2,73 % . - Đẩy mạnh xã hội hoá ; tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức , trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị cũng như mỗi người dân và cộng đồng đối với công tác bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ , huy động nhiều nguồn lực , khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư , phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khoẻ ; đổi mới và tăng cường hiệu quả phối hợp liên ngành trong công tác bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân . - Mở rộng bảo hiểm y tế , tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân là một lựa chọn chính sách mang tính then chốt để bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân , thực hiện sự chia sẻ giữa người khoẻ với người ốm , người giàu với người nghèo , người trong độ tuổi lao động với trẻ em , người già . Tuy nhiên , hiện nay diện bao phủ của bảo hiểm y tế còn hẹp , hiện mới chỉ có hơn 16 triệu người tham gia , chiếm 20,5 % dân số . Nguồn thu từ bảo hiểm y tế còn thấp , chiếm khoảng 16 % tổng nguồn tài chính y tế . Ngoài các biện pháp tuyên truyền , giáo dục và chế tài , cần tạo nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước , viện trợ , các quỹ từ thiện , quỹ cộng đồng , quỹ xoá đói , giảm nghèo ... để trợ giúp cho người nghèo , người sống ở nông thôn , miền núi , vùng sâu , vùng xa tham gia các loại hình bảo hiểm y tế phù hợp . · Giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người

bệnh . Chính sách thu một phần viện phí được thực hiện từ năm 1989 , đã góp phần bổ sung nguồn tài chính cho các bệnh viện , nhưng cũng đang là yếu tố hạn chế việc tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghèo , người thu nhập thấp . Điểm hạn chế lớn nhất của nguồn thu từ viện phí trực tiếp là làm mất khả năng chia sẻ gánh nặng chi phí cho người dân khi họ không may bị ốm đau , vì thu phí trực tiếp ở mức cao chỉ đặt gánh nặng chi trả lên những người bệnh , mà người nghèo thường ốm đau nhiều hơn và có nhu cầu

92

khám chữa bệnh nhiều hơn so với người giàu . Mặt khác , chính sách thu một phần viện phí hiện nay mới chiếm khoảng 30% chi phí thực tế , Nhà nước còn bao cấp khoảng 70 % , trong khi đó mức sử dụng bệnh viện nhà nước của nhóm 20 % người giàu gấp 4 lần so với nhóm 20 % người nghèo nên đã tạo ra tình trạng được gọi là " bao cấp ngược " - người có thu nhập cao được hưởng trợ cấp ngân sách nhiều hơn người nghèo . Vì vậy , đi đôi với việc điều chỉnh giá viện phí cho hợp lý , cần mở rộng bảo hiểm y tế và tăng nhanh hình thức thanh toán viện phí qua bảo hiểm y tế, từ đó giảm dần hình thức thanh toán viện phí trực tiếp từ người bệnh . Đây chính là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới quản lý hoạt động của các cơ sở dịch vụ y tế theo hướng tự chủ . 3. Thực hiện tốt việc trợ giúp cho các đối tượng chính sách, người nghèo , vùng sâu, vùng xa , vùng dân tộc thiểu số trong chăm sóc và nâng cao sức khoẻ . Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ , quan tâm đến những người có công với nước , những người nghèo , đồng bào các dân tộc thiểu số , là một chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta . Ngày 15-10-2002 , Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/ 2002/ QĐ -TTg về việc khám chữa bệnh cho người nghèo . Đây là một chủ trương hết sức đúng đắn và kịp thời nhằm hỗ trợ người nghèo một cách tích cực , toàn diện và hiệu quả hơn trong khám chữa bệnh . Có những địa phương như tỉnh Sơn La , có tới 83 % dân số toàn tỉnh được cấp thẻ bảo hiểm y tế người nghèo . Hàng năm , Nhà nước đã phân bổ trên 700 tỷ đồng cho Quỹ khám chữa bệnh người nghèo của các tỉnh . Đến nay , cả nước có trên 13 triệu đối tượng được thụ hưởng. Nhờ có Quỹ này , người nghèo đã tiếp cận và sử dụng được dịch vụ y tế kịp thời , cả các dịch vụ kỹ thuật cao ở tuyến tỉnh và trung ương . Số lượt người nghèo được khám chữa bệnh tăng cao so với những năm trước . Chính sách

93

khám chữa bệnh cho người nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao . Chính phủ một số nước và các tổ chức quốc tế đã tài trợ cho Quỹ khám chữa bệnh người nghèo ( Chính phủ Thụy Điển đã tài trợ hơn 5,7 triệu USD cho Quỹ khám chữa bệnh người nghèo các tỉnh Tây Nguyên , EC đã ký cam kết hỗ trợ 18 triệu Euro cho Quỹ khám chữa bệnh người nghèo ở 5 tỉnh Gia Lai , Kon Tum , Điện Biên , Sơn La và Lai Châu) . Trợ cấp cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong chăm sóc sức khoẻ là một giải pháp rất đúng đắn và cần thiết để bảo đảm cho mọi người dân đều được chăm sóc sức khoẻ , đồng thời còn là một hình thức đổi mới cơ chế tài chính theo hướng chuyển việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các cơ sở khám , chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do Nhà nước cung cấp thông qua hình thức bảo hiểm y tế . Trong những năm tới , cần sửa đổi , bổ sung và sử dụng có hiệu quả hơn Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo , mở các quỹ cộng đồng để trợ giúp người nghèo trong khám chữa bệnh , đặc biệt là phải lồng ghép các hoạt động này trong chương trình tổng thể về xoá đói , giảm nghèo . Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển là một vấn đề lớn trong đường lối của Đảng, nhằm bảo đảm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển .

Để cu thể hoá và hình thành được các chính sách cơ bản và dài hạn cho việc thực hiện , cần phải tiến hành một loạt các hoạt động nghiên cứu lý luận , tổng kết thực tiễn nhằm làm rõ hơn các quan niệm và tiêu chí công bằng, hiệu quả và phát triển mà hệ thống y tế nước ta cần hướng tới ; nhận diện đầy đủ những thành tựu cũng như những thách thức trong lĩnh vực bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân ; dự báo tác động của những yếu tố kinh tế - xã hội , khoa học , công nghệ , môi trường , dịch tễ …

94

trong bối cảnh 10-15 năm

tới đối với sức khoẻ nhân dân và hệ thống y tế ; đồng thời phải tìm hiểu và tham khảo những kinh nghiệm và bài học của các nước . Chúng tôi mong rằng sau Đại hội X của Đảng , các cơ quan của Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ , ngành liên quan sẽ phối hợp giúp đỡ ngành Y tế nhiều hơn nữa để tổ chức thực hiện thành công nghị quyết của Đảng trong cuộc sống .

95

NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH ĐỘT PHÁ NHẰM TẠO SỰ CHUYỂN BIẾN CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI (Tham luận của đồng chí Nguyễn Minh Hiển , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan khoa giáo Trung ương )

I

Trong 5 năm qua , cùng với những thành tựu rất quan trọng của đất nước , giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển trên cả ba mặt : nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài . Quy mô giáo dục tăng ở hầu hết các cấp học và trình độ đào tạo , đạt hoặc vượt các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra đến năm 2005 với hơn 23 triệu học sinh , sinh viên , gần 4 vạn trường học và các cơ sở giáo dục khác từ mầm non đến đại học , được phân bổ rộng khắp trên mọi miền đất nước . Chất lượng giáo dục đã có chuyển biến bước đầu . Công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm thực hiện và đạt kết quả tích cực trong việc tạo cơ hội học tập cho học sinh , sinh viên thuộc các gia đình nghèo , các đối tượng chính sách xã hội và con em đồng bào các dân tộc thiểu số . Tuy nhiên , bên cạnh những tiến bộ đã đạt được , giáo dục nước ta vẫn còn nhiều yếu kém , bất cập mà đáng quan tâm nhất là chất

96

lượng và hiệu quả giáo dục còn thấp , đặc biệt ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghệp . Trong 3 nhiệm vụ của giáo dục : " dạy chữ " , " dạy nghề " và "dạy người" , mới tập trung chủ yếu vào việc " dạy chữ " , chưa chú ý đầy đủ tới việc "dạy người" . Một số biểu hiện tiêu cực , thiếu kỷ cương chậm được khắc phục đang gây lo lắng, bức xúc trong xã hội . Nguyên nhân của những yếu kém , khuyết điểm này , về mặt chủ quan , trước hết phải kể đến tư duy giáo dục chậm đổi mới . Đi liền theo đó , phương thức quản lý giáo dục chưa theo kịp thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức . Việc xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm đầy đủ . Công tác xã hội hoá giáo dục triển khai còn chậm và thiếu các giải pháp đồng bộ . Về mặt khách quan , chúng ta đang đứng trước thách thức to lớn là vừa phải phát triển quy mô , vừa phải nâng cao chất lượng trong điều kiện nguồn lực còn rất hạn hẹp .

II

Như đã được xác định trong Báo cáo chính trị trình Đại hội , một trong những mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tới là : " Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức" . Điều đó có nghĩa là , phải phấn đấu để không ngừng nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển kinh tế - xã hội . Muốn vậy , phải tạo ra được sự chuyển biến cơ bản về giáo dục - đào tạo theo định hướng đã được Đại hội IX vạch ra là chuẩn hoá , hiện đại hoá và xã hội hoá . Hiện nay , chuẩn hoá giáo dục đang được thực hiện bằng việc xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chuẩn quốc gia (như chuẩn về kiến thức , kỹ năng, chương trình , sách giáo khoa , giáo viên , trường

97

lớp , thiết bị ... ) và thông qua việc triển khai công tác kiểm định chất lượng giáo dục . Nhờ đó , có thể kiểm soát và bảo đảm chất lượng giáo dục trong điều kiện quy mô tiếp tục được mở rộng . Như vậy, ngành giáo dục không chỉ đối mặt với những thách thức do quy mô rộng lớn và tính chất phức tạp của công việc phải làm , mà còn phải xây dựng cho được phương thức quản lý mới , lấy quản lý chất lượng làm trọng tâm , lấy hiệu quả làm căn cứ để đánh giá kết quả công tác . Hiện đại hoá là đưa giáo dục nước ta tiến kịp trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới . Điều đó buộc chúng ta phải đặt ra yêu cầu cao hơn khi xác định từng chuẩn trong hệ thống chuẩn quốc gia về giáo dục . Trong điều kiện của một nước nghèo , yêu cầu này thực sự đang là một thách thức , đòi hỏi ngành giáo dục phải nỗ lực tìm ra con đường đi tắt, đón đầu để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách so với các nền giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới . Theo hướng xã hội hoá , hệ thống giáo dục nước ta đang có những thay đổi rất cơ bản về phương thức giáo dục , loại hình nhà trường và nguồn lực phát triển . Đặc biệt là đối tượng người học đang được mở rộng và ngày càng đa dạng . Vì vậy , phải đổi mới cách nghĩ và cách làm nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh tổng hợp của cả nước , của mọi thành phần trong xã hội theo đúng chủ trương : Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .

III

Muốn tạo ra được sự chuyển biến cơ bản theo hướng chuẩn hoá , hiện đại hoá , xã hội hoá , cần phải đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo mà trước hết là đổi mới tư duy giáo dục . Khắc phục cách xử lý chắp vá , cục bộ , từng phần ; xây dựng tầm nhìn tổng thể về

98

giáo dục phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và phát triển kinh tế tri thức . Tiếp tục quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục , phát huy sức mạnh của nhân dân , xây dựng một nền giáo dục của dân , do dân và vì dân , bảo đảm ai cũng được học hành , học liên tục , học suốt đời và xây dựng cả nước trở thành xã hội học tập . Trong những năm tới , giáo dục nước ta về cơ bản phải là một nền giáo dục mở, có chất lượng , từng bước nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được mục tiêu trên , nhiệm vụ của ngành giáo dục là tiếp tục thực hiện tốt các nhóm giải pháp đã được Chính phủ đề ra trong Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 . Trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn 5 năm qua , cần tập trung vào ba nhóm giải pháp chủ yếu, mang tính đột phá sau đây:

1. Xây dựng , nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục Trong phát triển giáo dục , nhân tố con người - nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục - có vai trò quyết định . Vì vậy , theo tinh thần Chỉ thị 40 của Ban Bí thư, cần nhanh chóng khắc phục các yếu kém trong đào tạo , bồi dưỡng , trong bố trí, sắp xếp và sử dụng để sớm xây dựng được một đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng , đồng bộ về cơ cấu và bảo đảm các yêu cầu về phẩm chất , đạo đức , năng lực chuyên môn phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục . Đồng thời củng cố , tăng cường đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục theo hướng nâng cao tính chuyên nghiệp ; chuẩn hoá về trình độ chuyên môn và năng lực quản lý . Ngoài các yêu cầu trên , trong 10 năm tới , đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục của cả nước phải phấn đấu để đạt trình độ khá trong khu vực về tin học , từng bước nâng cao trình độ ngoại ngữ , trước hết là tiếng Anh . Ngành Giáo dục đặc biệt coi trọng việc nâng cao đạo đức nghề nghiệp , tính mô

99

phạm , mẫu mực của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục ; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện gian lận , chạy theo thành tích , "mua bằng , bán điểm " và các hành vi tiêu cực khác để bảo vệ sự trong sạch của nhà trường và cơ quan quản lý giáo dục . Phấn đấu để người thày thực sự trở thành tấm gương sáng cho học sinh , sinh viên noi theo . Về chế độ, chính sách , đề nghị Đảng và Nhà nước dành sự quan tâm nhiều hơn để bảo đảm thu nhập thoả đáng và điều kiện làm việc cho các nhà giáo , trước hết là ở các khu vực đặc biệt khó khăn và đối với các giáo sư, chuyên gia đầu ngành . Cần thực hiện sự bình đẳng về quyền và trách nhiệm , không có sự phân biệt giữa giáo viên công tác tại các trường công lập và ngoài công lập , giữa giáo viên trong biên chế và ngoài biên chế. Tất cả các nhà trường, trước hết là các trường sư phạm và trường cán bộ quản lý giáo dục sẽ tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học ; tích cực triển khai việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy , học tập và quản lý , lấy đây làm khâu đột phá để đổi mới cách dạy , cách học , cách quản lý nhà trường .

2. Đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý giáo dục Yêu cầu trước mắt là cần nhanh chóng khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm hiện nay , tập trung vào việc hoàn thiện thể chế giáo dục theo tinh thần cải cách hành chính , bảo đảm hiệu lực và hiệu quả của pháp chế xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực giáo dục . Trong 10 năm tới , tích cực chuẩn bị để có thể ban hành Luật giáo viên , Luật giáo dục đại học , Luật giáo dục nghề nghiệp , Luật giáo dục thường xuyên nhằm hoàn chỉnh khung pháp lý cho các hoạt động giáo dục ... Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý giáo dục theo tinh thần phân cấp rõ rệt và mạnh mẽ về chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn giữa các bộ , ngành và địa phương. Tăng cường quyền tự chủ và

100

trách nhiệm xã hội của nhà trường đi đôi với việc đẩy mạnh công tác thanh tra , kiểm tra . Phát huy dân chủ trong xây dựng , thực hiện và giám sát việc thực hiện các chủ trương , chính sách , chế độ về giáo dục ; bảo đảm tính công khai , minh bạch , công bằng trong huy động và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho giáo dục . Cùng với việc kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và xử lý kịp thời những biểu hiện thiếu kỷ cương, nền nếp và tiêu cực , ngành Giáo dục sẽ lấy việc quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm , mà đặc trưng nổi bật là việc kiểm soát, bảo đảm và kiểm định chất lượng . Khẩn trương nghiên cứu và tiến hành đổi mới một cách đồng bộ công tác quản lý chất lượng giáo dục , tiếp cận các phương thức quản lý hiện đại , phù hợp với trình độ thực tiễn và các đặc điểm văn hoá - xã hội của nước ta . Trong đó , vấn đề có tính quyết định là xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia về giáo dục, làm cơ sở cho việc theo dõi , kiểm tra , đánh giá và bảo đảm chất lượng ở tất cả các khâu trong quá trình giáo dục và đối với tất cả các loại hình nhà trường . Trên cơ sở phát huy quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của nhà trường , công tác quản lý giáo dục sẽ được đổi mới theo hướng bám sát thực tế , lắng nghe tiếng nói của nhà giáo , phụ huynh , học sinh , sinh viên và xã hội để có những quyết định đúng đắn , phù hợp và khả thi . Nhanh chóng thực hiện tin học hoá để thiết lập kênh trao đổi thông tin kịp thời và tin cậy giữa cơ quan quản lý giáo dục , nhà trường, gia đình và xã hội .

3. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, huy động các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục và xây dựng xã hội học tập Xã hội hoá giáo dục vừa là mục tiêu vừa là một trong những giải pháp chủ yếu để phát triển giáo dục . Để làm được việc này , trước hết cần mở rộng cơ hội học tập cho mọi người thông qua việc

101

phát triển phương thức giáo dục thường xuyên . Tạo điều kiện thuận lợi cho người học trong việc chuyển đổi kết quả học tập giữa các phương thức giáo dục , loại hình nhà trường và liên thông giữa các cấp học và trình độ đào tạo . Phấn đấu đến năm 2010 hình thành những yếu tố cơ bản của một xã hội học tập ở nước ta . Mặt khác , cần mở rộng và hoàn thiện các hình thức huy động cộng đồng tham gia quản lý nhà trường và giải quyết những vấn đề quan trọng của giáo dục . Tạo điều kiện để các nhà giáo , nhà khoa học , nhà hoạt động xã hội ... đóng góp công sức , trí tuệ vào quá trình ra quyết định và xây dựng chính sách ; xây dựng chương trình , sách giáo khoa ; đánh giá chất lượng giáo dục , giảng dạy , nghiên cứu tại các nhà trường và cơ sở giáo dục . Các cơ quan quản lý giáo dục và nhà trường sẽ phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận , với Hội Khuyến học Việt Nam , các tổ chức xã hội nghề nghiệp ... xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, ngăn chặn và chống lại sự thâm nhập của các tệ nạn xã hội và tiêu cực vào nhà trường . Tiếp tục mở rộng hệ thống các trường ngoài công lập , thực hiện chính sách ưu đãi về đất đai , về thuế và tín dụng để tạo điều kiện cho các trường này phát triển . Bảo đảm để trường ngoài công lập thực sự bình đẳng với trường công lập trong việc thực hiện mục tiêu , nội dung, chương trình , phương pháp giáo dục và các quy định liên quan đến tuyển sinh , dạy và học , thi và kiểm tra , công nhận tốt nghiệp , cấp văn bằng . Cùng với việc huy động sự đóng góp của nhân dân , chủ yếu là đối với các gia đình có điều kiện và ở các khu vực thuận lợi , sẽ bổ sung , hoàn chỉnh các chính sách hỗ trợ đối với học sinh nghèo và con em gia đình thuộc diện chính sách . Nhà nước tiếp tục tăng ngân sách giáo dục , tiến hành điều chỉnh cơ cấu phân bổ theo hướng không dàn trải và dành ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục cho vùng khó khăn , vùng đồng bào dân tộc thiểu số ; hỗ trợ học sinh nghèo , con em gia đình thuộc diện chính

102

sách , bất kể các em này ở thành phố hay ở nông thôn , ở trường công hay ở trường tư. Chỉ có như vậy mới nhanh chóng giảm được khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền và giữa các bộ phận dân cư khác nhau trong xã hội . Với nhận thức về vai trò và trách nhiệm của giáo dục đối với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước, với tình cảm biết ơn và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, toàn thể các nhà giáo , cán bộ quản lý giáo dục và học sinh , sinh viên trong cả nước sẽ nỗ lực phấn đấu để hoàn thành một cách tốt nhất những nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho .

103

CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP VÀ TĂNG TỐC PHÁT TRIỂN, SỚM ĐƯA NƯỚC TA RA KHỎI TÌNH TRẠNG KÉM PHÁT TRIỂN

( Tham luận của đồng chí Hứa Ngọc Thuận , Uỷ viên Ban Thường vụ Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh , đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh )

Từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh cùng với cả nước thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng 5 năm qua và 20 năm đổi mới , thực hiện Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị về Thành phố Hồ Chí Minh cùng những cơ hội , thách thức và yêu cầu đặt ra trong tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , chúng tôi xin phát biểu một số ý kiến với nội dung trọng tâm là chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển .

1. Để chủ động hội nhập giành thắng lợi, trước hết phải nâng cao năng lực nội sinh của nền kinh tế

Đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta là đúng đắn và đã được triển khai thực hiện . Tuy nhiên , từ thực tiễn triển khai thực hiện các chương trình hội nhập của Thành phố mấy năm qua và để chủ động hội nhập thực sự đi vào cuộc sống , chúng tôi thấy cần có nhận thức và những chính sách , giải pháp cụ thể như sau : Thứ nhất , cần nhận thức hội nhập không phải là mục tiêu, mà coi đó như là phương tiện để phục vụ cho sự phát triển của đất

104

nước . Phải chủ động về mọi mặt , quán triệt tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân về ý nghĩa của hội nhập kinh tế quốc tế và thấy trước quá trình hội nhập sẽ tạo ra nhiều cơ hội , vận hội mới , song cũng không ít thách thức nghiệt ngã . Phải chủ động tạo nguồn nhân lực có phẩm chất , năng lực và bản lĩnh chính trị vững vàng ; chủ động nắm lấy thời cơ và đương đầu với những thách thức ; nêu cao tinh thần độc lập tự chủ trong quá trình hội nhập , nhằm vào mục tiêu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế là chiến lược quốc gia , có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Do đó , trong chính sách hội nhập phải làm sao cho các doanh nghiệp trong nước mạnh lên , thực sự có năng lực , làm chủ quá trình hội nhập để cạnh tranh giành thắng lợi . Cần có cơ chế chính sách rộng mở hơn nữa nhằm tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp trong nước thuộc mọi thành phần kinh tế làm chủ thị trường nội địa , nâng cao năng lực nội sinh , đặc biệt đối với những lĩnh vực dịch vụ mà lâu nay còn hạn chế đối với các thành phần kinh tế ngoài khu vực nhà nước . Thứ ba, phải tập trung chuẩn bị , tạo nguồn nhân lực cho hội nhập , vì đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi trong quá trình hội nhập . Cho đến nay , công việc này thực hiện còn chậm và chưa đồng bộ . Sắp tới, cần vạch ra một chương trình tầm quốc gia , có mục tiêu và biện pháp thực hiện cụ thể , không chỉ đối với doanh nghiệp mà đối với cả hệ thống chính trị . Đây là công việc không thể chậm trễ , mà phải có chính sách , giải pháp đột phá trong việc chủ động , đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực bảo đảm yêu cầu cạnh tranh , hội nhập . Chính sách này cần phải cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực đối với từng ngành , từng lĩnh vực , trên cơ sở xác định lộ trình , mục tiêu cụ thể cho 5 năm và từng năm để triển khai thực hiện .

105

2. Để tăng tốc phát triển, cần xác định mục tiêu và những chính sách, giải pháp sau đây:

Thứ nhất , cần đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 9% / năm trở lên đểphấn đấu . Báo cáo chính trị đã thể hiện tư tưởng đổi mới khá mạnh mẽ về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quyết tâm đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển . Theo tinh thần đó , chúng ta có thể huy động tối đa nguồn nội lực , khai thác tối ưu các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế để đạt mục tiêu tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng đã đề ra , cụ thể là 9% trở lên . Mức tăng trưởng này có vẻ cao , nhưng do khởi điểm của nền kinh tế nước ta quá thấp , nguồn lực đất nước chưa được huy động tối đa và sử dụng hiệu quả , quản lý yếu kém , thất thoát , lãng phí , nên số gia tăng tuyệt đối không đáng kể so với nền kinh tế toàn cầu . Nếu 5 năm tới , nền kinh tế nước ta mỗi năm đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 9-10% , thì số tăng tuyệt đối cũng chỉ từ 5-7 tỷ USD/năm . Theo dự báo , nếu nền kinh tế thế giới chỉ cần tăng trưởng bình quân 2 %/năm (dự báo trên 3 % /năm ) , thì mỗi năm số tuyệt đối tăng thêm hơn 760 tỷ USD . So sánh như vậy cho chúng ta thấy rằng, trong điều kiện hội nhập với nền kinh tế quốc tế , nếu chúng ta mở rộng hội nhập với thị trường thế giới , thì mức tăng trưởng tuyệt đối của nền kinh tế nước ta còn quá nhỏ trong mối quan hệ với nền kinh tế toàn cầu , tức là dư địa cho sự phát triển của ta còn rất lớn . Trong 5 năm tới, mặc dù nền kinh tế nước ta phải đối diện với nhiều thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài , nhưng chúng ta hoàn toàn có thể đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế với quyết tâm cao và từ đó tính toán các nguồn lực , đổi mới mạnh mẽ chính sách và cơ chế ; huy động và phân bố hợp lý nguồn lực phát triển để đạt mục tiêu đề ra

106

như

một

bài

toán

ngược .

Đối

chiếu

với

Thành

phố

Hồ Chí Minh trong 5 năm tới , nếu GDP trên địa bàn Thành phố tăng bình quân 12 % /năm , thì số tăng tuyệt đối cũng chỉ khoảng 1,5 tỷ USD/năm . Con số này sẽ không quá khó để đạt được , nếu chúng ta có chính sách và giải pháp tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường nội địa và xuất khẩu ; thu hút các tập đoàn lớn đầu tư vào các ngành công nghệ cao, cơ sở hạ tầng, ... tạo sự phát triển đột phá trong các lĩnh vực dịch vụ cao cấp . Về mặt nội lực , chúng ta có thế mạnh về ổn định chính trị, về sự năng động, nhạy bén của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế , về nguồn lao động dồi dào , có kỹ năng và làm việc có năng suất ... Thứ hai , sử dụng có hiệu quả các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô như công cụ quản lý nhà nước chủ yếu, để thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế. Thực tiễn cho thấy , tăng trưởng kinh tế nước ta chưa thực sự gắn liền với các yếu tố chất lượng, hiệu quả và bền vững, mà điểm nổi bật là sự tồn tại của một cơ cấu kinh tế có sức cạnh tranh còn thấp , rất bất lợi khi hội nhập với nền kinh tế toàn cầu , theo một " luật chơi" rất khắc nghiệt . Nền kinh tế nước ta cơ bản vẫn phát triển theo chiều rộng, trong đó nổi lên là ngành công nghiệp chế biến , gia công hàm lượng giá trị gia tăng thấp , do đó , tỷ trọng giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất có xu hướng giảm . Cơ cấu 3 khu vực I , II , III có chuyển biến tích cực , nhưng cơ cấu sản phẩm , hàng hoá dịch vụ trong nội bộ của mỗi khu vực chuyển dịch không đáng kể . Trong những loại dịch vụ cao cấp như tài chính - tín dụng ngân hàng - bảo hiểm ; viễn thông - tin học ; khoa học - công nghệ chuyển giao ... , tuy có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình , nhưng chiếm tỷ trọng còn rất thấp trong cơ cấu khu vực dịch vụ . Nguyên nhân của thực trạng đó là do khi đặt mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế , quy hoạch phát triển từng ngành kinh tế , chúng ta mới chỉ dừng lại ở nội dung làm gì ( tức xác định sản phẩm hàng hoá , dịch vụ) , chưa chỉ ra được điều quan trọng là phải làm cách

107

nào và ai làm ( tức là chưa có chính sách , biện pháp cụ thể kèm theo quy hoạch , kế hoạch để thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm hàng hoá , dịch vụ cụ thể trong nội bộ từng ngành kinh tế ) . Trong điều kiện vận hành của cơ chế kinh tế thị trường, vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế , dù ở tầm quốc gia hay địa phương , thì trước hết và chủ yếu phải được tác động bởi các chính sách kinh tế vĩ mô , nhất là các chính sách về tài chính , tín dụng , đào tạo nguồn nhân lực , ứng dụng khoa học - công nghệ ... nhằm dẫn dắt thị trường, khắc phục những khuyết tật của thị trường trong quá trình tác động đến đầu tư, sản xuất , kinh doanh của doanh nghiệp . Từng địa phương khó có thể thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nhất là cơ cấu nội bộ các ngành kinh tế , nếu thiếu các chính sách điều tiết vĩ mô ở tầm quốc gia có liên quan đến từng ngành , từng lĩnh vực kinh tế .

Thứ ba , cần mở sớm hơn và nhanh hơn thị trường dịch vụ cho mọi thành phần kinh tế trong nước nhằm "tạo bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp , có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn". Để khu vực dịch vụ có được tốc độ tăng trưởng mang tính đột phá , cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP , cần có cơ chế chính sách nhằm đẩy nhanh các ngành dịch vụ cao cấp phát triển , nâng tỷ trọng các ngành dịch vụ cao cấp trong giá trị của cơ cấu dịch vụ , nhất là đối với các thành phố lớn , các trung tâm dịch vụ của các vùng kinh tế trọng điểm . Báo cáo chính trị và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006-2010 chưa đề cập đến chính sách và cơ chế cụ thể cho khu vực dịch vụ phát triển mạnh mẽ . Thách thức lớn nhất của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập là cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ , trong đó các loại dịch vụ tài chính - tín dụng - ngân hàng; viễn thông - truyền thông ; mạng lưới tổ chức thương mại nội địa ; vận tải hàng không, hàng hải ... sẽ chịu sự cạnh tranh quyết liệt giữa doanh nghiệp trong nước với các tập

108

đoàn kinh tế nước ngoài . Nếu chúng ta thiếu chính sách và giải pháp có hiệu quả để khuyến khích , thu hút các thành phần kinh tế trong nước đầu tư mạnh và hoạt động có hiệu quả trong các lĩnh vực dịch vụ cao cấp , thì sẽ là nguy cơ lớn khi mở cửa , hội nhập , ngay trong những năm sắp tới . Đề nghị quan tâm đặc biệt đến thị trường tài chính , bao gồm các loại dịch vụ tài chính , tín dụng, ngân hàng , đầu tư , bảo hiểm ... , phát triển đồng bộ cả thị trường vốn lẫn thị trường tiền tệ . Chúng tôi rất tán thành như Báo cáo chính trị đã xác định : " Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính , hoàn thiện thị trường tiền tệ ; lành mạnh hoá các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường" . Để cụ thể hơn ý tưởng trên , xin đề nghị 4 nhóm giải pháp sau : ( 1 ) Nghiên cứu , ban hành và hoàn thiện các định chế tài chính - tín dụng phi ngân hàng với các công cụ như quỹ đầu tư , công ty đầu tư, công ty tài chính , v.v .; (2) Xây dựng các ngân hàng chuyên doanh đầu tư dưới hình thức công ty cổ phần , mà cổ đông nắm cổ phần chi phối có thể là ngân hàng thương mại quốc doanh . Chức năng chính của loại ngân hàng đầu tư cổ phần này là tham gia vào thị trường vốn (trung - dài hạn) , trong khi đó chức năng chính của các ngân hàng thương mại là tham gia vào thị trường tiền tệ ; (3) Phải củng cố thật mạnh và có bước phát triển đột phá thị trường chứng khoán của nước ta bằng các chính sách khuyến khích tăng nhanh số lượng hàng hoá cho thị trường , thông qua việc niêm yết các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn đã được cổ phần hoá ; ( 4 ) Cần xây dựng các định chế để tạo sự liên thông giữa thị trường tài chính với thị trường bất động sản ; chế định các công cụ tài chính đầu tư vào thị trường bất động sản ; khắc phục tình trạng tự phát trong việc huy động vốn tín dụng ngắn hạn của các ngân hàng thương mại .

Chúng ta đang bước vào hội nhập toàn diện nền kinh tế toàn cầu với những cơ hội và thách thức to lớn . Vì sự nghiệp công

109

nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , chúng ta chấp nhận cuộc cạnh tranh khốc liệt này . Chính từ những thách thức đó , chúng ta sẽ trưởng thành và tìm được vận hội mới cho sự rút ngắn quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , để đến năm 2020 , nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp và trước năm 2010 thoát ra khỏi tình trạng quốc gia kém phát triển . Đảng ta tiếp tục gánh vác nhiệm vụ nặng nề này với quyết tâm cao , mà những quyết sách của Đại hội Đảng toàn quốc lần này có ý nghĩa lịch sử đối với đất nước và dân tộc ta . Thành phố Hồ Chí Minh vì cả nước , cùng cả nước , sẽ phát huy hơn nữa vai trò , trách nhiệm và tính năng động sáng tạo của con người Thành phố , tiếp tục đóng góp ngày càng tích cực hơn cho sự phát triển chung của đất nước , quyết tâm giành thắng lợi trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tăng tốc phát triển . Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII vừa qua đã tỏ rõ ý tưởng và quyết tâm đó . Những ý kiến đề xuất nêu trên của chúng tôi cũng đồng thời là những kiến nghị với Đại hội để Thành phố có thể biến ý tưởng và quyết tâm đó thành hiện thực . Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức được trách nhiệm nặng nề và vinh quang đó trước toàn Đảng . Chúng tôi đặt trọn niềm tin vào trí tuệ của Đại hội trong việc đề ra những quyết sách lớn bảo đảm giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trong cạnh tranh , hội nhập ; tiếp tục minh chứng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta , củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng .

110

PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ XÃ HỘI VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở CÁC TRUNG TÂM KINH TẾ VÀ ĐÔ THỊ LỚN QUA THỰC TIỄN HẢI PHÒNG ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Thuận , Bí thư Thành uỷ Hải Phòng , đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng )

Phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển chung của mọi quốc gia . Phát triển bền vững là quá trình có sự kết hợp chặt chẽ , hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển , đó là : sự tăng trưởng kinh tế ổn định , thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội ; khai thác hợp lý , sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên , bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống . Điều này càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các trung tâm kinh tế và đô thị lớn của đất nước - nơi có mật độ dân cư cao , có nhiều lợi thế phát triển kinh tế , song cũng là nơi tập trung đa dạng các vấn đề về xã hội và môi trường . Từ thực tiễn thành phố Hải Phòng , chúng tôi nhất trí cao với đánh giá của Trung ương về thành tựu 5 năm qua là " việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết vấn đề xã hội có chuyển biến tốt" . Trong 5 năm qua , kinh tế Hải Phòng phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 11,1 %/năm ; giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng khá cao , sau 5 năm tăng gấp gần 2,5 lần về quy mô,

111

bình quân tăng trên 20 % /năm . Thành phố đã quan tâm thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội , giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc , tăng cường công tác bảo vệ môi trường . Thành phố hiện không còn hộ đói , tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 còn 3 % (theo tiêu chí cũ) ; xoá xong nhà tranh , vách đất cho hộ nghèo ; thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công với nước , tổ chức sâu rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa . Chú trọng công tác phòng chống các tệ nạn xã hội , nhất là ở những địa bàn trọng điểm . Nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn , phát huy hiệu quả phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế , xây dựng nông thôn mới . Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có chuyển biến tiến bộ khá toàn diện . Một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường đã được di dời ra khỏi khu dân cư tập trung (điển hình là việc Nhà máy Xi măng Hải Phòng cũ dừng sản xuất vào đầu năm 2006 vừa qua) . Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường . Công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đạt được tiến bộ ; nâng cao khả năng xử lý sự cố tràn dầu ... Bên cạnh thành tích đạt được từ thực tiễn Hải Phòng , chúng tôi nhận thấy việc phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường tại những trung tâm kinh tế và đô thị lớn ở nước ta còn không ít khuyết điểm và yếu kém . Hiệu quả giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường chưa tương xứng với thành tựu phát triển kinh tế; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt , phát sinh những vấn đề mới . Thành tựu xoá đói giảm nghèo chưa thật vững chắc , nguy cơ tái nghèo vẫn còn ; thu nhập của phần lớn dân cư còn thấp ; chênh lệch về thu nhập , mức sống giữa các tầng lớp nhân dân , giữa nội thành và ngoại thành , giữa đô thị và nông thôn có xu hướng tăng ; khả năng tạo việc làm còn hạn chế và thường thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng trưởng đầu tư , do đó nhu cầu về việc làm , nhất là

112

việc làm ở nông thôn , vùng xa trung tâm chưa được đáp ứng tốt ; đời sống nhân dân ở vùng sâu , vùng xa , hải đảo còn nhiều khó khăn ; cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở đô thị , nông thôn còn thiếu đồng bộ ; tội phạm và tệ nạn xã hội có chiều hướng tăng . Bảo vệ môi trường còn nhiều yếu kém . Tốc độ phát triển công nghiệp quá nhanh đã bộc lộ nhiều bất cập về môi trường . Hiện nay , có khá nhiều khu công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải đạt yêu cầu nên nguy cơ gây ô nhiễm rất cao , nhất là ô nhiễm các nguồn nước (cả nước mặt và nước ngầm ) . Những vi phạm về nhập khẩu hàng hoá kém phẩm chất , thậm chí nhập rác thải công nghiệp vào nước ta qua cảng biển , như Cảng Hải Phòng trong thời gian qua , là bài học đắt giá cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . Những sự việc xảy ra về xử lý rác thải và vệ sinh môi trường đô thị ở các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn như Hải Phòng và một số thành phố khác trong mấy năm qua đã trở thành vấn đề bức xúc , thậm chí có những lúc trở thành điểm nóng . Đặc biệt , cùng với sự phát triển nhanh kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế , đã phát sinh thêm những vấn đề xã hội ở các đô thị , khu kinh tế lớn của đất nước . Đó là lao động mất việc làm do chuyển đổi trong các doanh nghiệp nhà nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng lên , tình trạng tranh chấp lao động và đình công xảy ra ở những nơi lao động có thu nhập thấp , một số chế độ không được bảo đảm , trong khi đó cơ chế giải quyết các vụ đình công , bãi công đang còn chưa hoàn thiện . Vấn đề nhà ở cho công nhân các khu công nghiệp , công nhân lao động đến từ các địa phương khác , người lao động có thu nhập thấp đã và đang trở thành vấn đề căng thẳng, trở thành khó khăn lớn trong việc giữ gìn thuần phong mỹ tục và xây dựng nếp sống văn minh đô thị . Số lao động nông nghiệp cần có việc làm do đất canh tác được chuyển sang phục vụ phát triển đô thị , công nghiệp và dịch vụ tăng .

113

Chênh lệch thu nhập có nguồn gốc từ các thu nhập không chính đáng gây bất bình , bức xúc trong xã hội . Thêm nữa , việc tăng nhanh dân số cơ học đã gây quá tải các hệ thống hạ tầng kỹ thuật, văn hoá - xã hội , ảnh hưởng chất lượng đời sống , trở thành vấn đề xã hội , trong đó tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông nội đô đang là những bài toán nan giải . Phát sinh những tệ nạn xã hội và các tội phạm mới liên quan đến Internet và mặt trái của mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế . Chủng loại , khối lượng và mức độ nguy hại của chất thải từ hoạt động kinh tế và rác thải sinh hoạt tăng nhanh tới mức các công nghệ thu gom , chôn lấp hiện có không còn thích hợp . Nguy cơ sự cố tràn dầu tăng lên theo mức tăng hoạt động hàng hải , giao thông thuỷ . Tất cả những vấn đề trên đang là các yếu tố làm giảm chất lượng sống , đi ngược với nhu cầu ngày càng cao về đời sống vật chất , văn hoá , tinh thần và an sinh xã hội . Đó là lực cản đáng quan tâm của quá trình phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và cả tương lai . Những vấn đề đó có nguyên nhân khách quan , song cần thấy rõ nguyên nhân chủ quan là : nhận thức về phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường chưa đầy đủ , sâu sắc , thậm chí còn vì động cơ nào đó nên chỉ chạy theo thành tích tăng trưởng kinh tế đơn thuần ; thiếu kinh nghiệm , khả năng tài chính hạn chế , thấp xa so với nhu cầu . Công tác xây dựng quy hoạch , kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội , quản lý môi trường còn yếu , nhiều bất cập , chưa gắn kết hữu cơ trong một quy hoạch thống nhất , do đó chưa thực sự tạo nên các cơ sở của sự phát triển bền vững . Việc phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng , nhất là ở những trung tâm kinh tế , đô thị lớn của đất nước là yêu cầu nhiệm vụ mang tính khách quan và cấp

114

bách trong tình hình hiện nay . Điều này đã được thể hiện rõ trong mục tiêu , phương hướng tổng quát, trong các nhiệm vụ phát triển đất nước đến năm 2010. Chúng tôi xin làm rõ thêm một số giải pháp thực hiện như sau : Trước hết , cần tăng cường thường xuyên công tác tuyên truyền , giáo dục, nâng cao nhận thức về vấn đề phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường ; tuyên truyền về phong cách , nếp sống , ý thức quản lý đô thị văn minh, hiện đại . Trong tuyên truyền , không chỉ tập trung tuyên truyền chủ trương , quan điểm , chính sách , pháp luật của Đảng , Nhà nước , mà còn phải chú trọng các chương trình hành động thực hiện , xây dựng và nhân rộng các mô hình, cách làm sáng tạo và hiệu quả . Thứ hai , trong phát triển kinh tế cần hết sức chú trọng việc phát huy lợi thế, tăng cường xúc tiến thu hút đầu tư , đẩy mạnh phát triển kinh tế làm cơ sở giải quyết các vấn đề xã hội . Bằng các chương trình , dự án và nhất là các cơ chế , chính sách khuyến khích thiết thực , cần gắn phát triển kinh tế với giải quyết việc làm , nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống cho người lao động , đặc biệt quan tâm thực hiện các chương trình phát triển nhà ở , dịch vụ tương xứng , nhất là với các đối tượng là công nhân lao động có thu nhập thấp . Kết hợp việc phát triển các khu đô thị mới với cải tạo , nâng cấp , chỉnh trang đô thị , cải tiến phương thức quản lý đô thị . Đẩy mạnh thực hiện cải tạo , nâng cấp các hệ thống hạ tầng đô thị ; tăng đầu tư hạ tầng nông thôn ở quy mô thích hợp bảo đảm hiệu quả sử dụng , thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , góp phần giảm chênh lệch điều kiện sống giữa đô thị và nông thôn . Hoàn thiện các biện pháp mở rộng nhiều mô hình hiệu quả tích cực phòng chống các tệ nạn xã hội ; đồng thời chú trọng phòng chống các tệ nạn xã hội , tội phạm mới . Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế để xoá đói giảm

115

nghèo ; đặc biệt coi trọng đẩy mạnh hướng dẫn , phát triển dịch vụ tư vấn về cách thức làm kinh tế rộng khắp cho các đối tượng dân cư . Đẩy mạnh xã hội hoá , chuyển sự nghiệp y tế , giáo dục , văn hoá , thể thao , nghệ thuật sang dịch vụ một cách hợp lý với bước đi gắn với tiến trình nâng mức thu nhập của người lao động và phát triển các hoạt động từ thiện , bảo hiểm liên quan . Đẩy mạnh việc hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với các biện pháp khắc phục những hạn chế của mặt trái , tác động tiêu cực của cơ chế thị trường tới các vấn đề xã hội , môi trường. Phát triển đa dạng các hoạt động bảo hiểm , các quỹ phòng ngừa rủi ro , nghiên cứu thực hiện quỹ trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp . Tiếp tục thực hiện tốt hơn chính sách xã hội của Nhà nước và nâng cao hiệu quả phong trào đền ơn , đáp nghĩa , chăm sóc người có công với nước . Thứ ba , gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện đồng bộ toàn diện chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2020. Trong đó , đặc biệt coi trọng khâu kiểm tra giám sát, quản lý chặt chẽ ngăn ngừa nhập chất thải , phế liệu ; hạn chế chất thải từ hoạt động sản xuất - kinh doanh , nhất là chất thải độc hại , gây ô nhiễm , không tái sinh ; giảm , tiến đến thay thế việc sử dụng hoá chất trong sản xuất nông nghiệp , thủy sản ; đầu tư hợp lý việc tái chế , xử lý chất thải , trước hết đối với chất thải nguy hại . Cải tạo, hiện đại hoá hệ thống thoát nước đô thị và đầu tư thiết bị thu gom rác vệ sinh đô thị , đồng thời với cải tiến công tác quản lý bảo đảm đúng quy trình vệ sinh nâng cao hiệu quả sử dụng; củng cố tăng cường năng lực quản lý bảo vệ môi trường biển , đảo , khu dự trữ sinh quyển quốc tế ; ngăn chặn và kịp thời xử lý sự cố ô nhiễm trên biển . Tăng cường thông tin , hướng dẫn , có cơ chế hỗ trợ, mở rộng áp dụng các hệ thống sản xuất sạch , an toàn trong công nghiệp , nông nghiệp , dịch vụ , các công nghệ quay vòng, tái sử dụng phế liệu, bao bì ... Cần có quy hoạch , kế hoạch hợp lý về khai thác tài nguyên , khoáng sản

116

bảo đảm hài hoà giữa các lợi ích về phát triển kinh tế - xã hội và môi trường , tránh chỉ vì mục đích lợi nhuận kinh tế đơn thuần . Thứ tư, cần nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy quản lý các khu đô thị mới và khu công nghiệp . Nắm bắt và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội . Hiện nay, cơ cấu tổ chức phối hợp quản lý các khu đô thị mới và các khu công nghiệp tập trung còn nhiều vấn đề bất cập rất đáng quan tâm . Năng lực của bộ máy quản lý ở nhiều nơi chưa đạt yêu cầu , do đó hiệu quả chưa cao . Trong khi chưa có nhiều kinh nghiệm quản lý đô thị lớn hiện đại và các khu công nghiệp mới , chúng ta rất cần phải hoàn chỉnh cơ chế quản lý các đô thị mới và khu công nghiệp , nhất là hoàn chỉnh hệ thống pháp luật. Thứ năm , thực hiện phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường , gắn với nâng cao năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu và phát huy cao độ vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng , điều hành quản lý của chính quyền , huy động toàn bộ nguồn lực xã hội trong nước và nước ngoài , nâng cao ý thức trách nhiệm của Nhà nước , nhà đầu tư , sản xuất - kinh doanh và mỗi người dân . Thực hiện việc chú trọng tăng cường giải quyết các vấn đề xã hội , bảo vệ môi trường với quy mô , bước đi tương xứng với khả năng nguồn lực , bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội , không dồn trách nhiệm xã hội , tạo gánh nặng , gây thiệt hại đối với người đầu tư sản xuất - kinh doanh phát triển kinh tế . Thực hiện bằng các biện pháp cụ thể , đồng bộ ; đẩy mạnh , nâng cao chất lượng công tác quy hoạch , kế hoạch , phân bổ nguồn lực , ngân sách và bằng các chương trình , dự án , cơ chế chính sách sát hợp ; trong đó , coi trọng cả biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục , động viên , các biện pháp kinh tế , hành chính và có chế tài thích hợp . Muốn kinh tế - xã hội cả nước phát triển thì vai trò của từng địa phương và từng vùng phải được xác định cụ thể , rõ ràng . Mỗi

117

địa phương chỉ có thể đi lên được khi có sự phối hợp , tương tác với các địa phương trong nước và trong từng vùng kinh tế . Vì thế, phải có quy hoạch vùng một cách chi tiết và dựa trên chính những tiềm năng sẵn có của vùng, của từng địa phương . Chúng tôi cho rằng khai thác có hiệu quả tiềm năng của mỗi địa phương là quan trọng , đồng thời với khai thác tổng thể tiềm năng của cả nước , của từng vùng kinh tế trọng điểm chính là để bảo đảm cho sự phát triển bền vững .

118

TẬP TRUNG MỌI NỖ LỰC ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, THỰC HIỆN THẮNG LỢI CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HOÁ THÀNH PHỐ CẦN THƠ VÀ

ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Tấn Quyên , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ )

1. Vừa qua , vào ngày 31-12-2004 (tức là sau một năm thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương) , Bộ Chính trị có buổi làm việc với thành phố Cần Thơ . Tại đây , các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã nói : "Cần Thơ là một vùng "đắc địa " . Nói đến Cần Thơ là phải nói đến đồng bằng sông Cửu Long , nói đến đồng bằng sông Cửu Long là phải nói đến sông Mê Công" . Chúng tôi hiểu rằng , đó là một cách nhấn mạnh vai trò của thành phố Cần Thơ cả về địa chính trị , địa kinh tế , địa văn hoá ... và mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời giữa thành phố Cần Thơ với vùng đồng bằng sông Cửu Long . Như chúng ta đều biết , đồng bằng sông Cửu Long vốn là một vùng đồng bằng lớn nhất của nước ta , có diện tích tự nhiên 39.842 km2 (bằng 12 % diện tích cả nước) , dân số hơn 17 triệu người ; đa dạng về tiềm năng; vừa là một bán đảo , vừa là một châu thổ. Điều đó nói lên tính chất rất đặc thù của vùng này , trong đó thành phố Cần Thơ nằm ở vị trí trung tâm vùng đồng bằng .

119

Trong nhiều năm qua , Cần Thơ nói riêng, đồng bằng sông Cửu Long nói chung đã có những nỗ lực rất lớn , phấn đấu giành được những thành tựu bước đầu khá quan trọng về kinh tế - xã hội , quốc phòng - an ninh , xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở từng địa phương và có đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của đất nước . Tuy nhiên , cũng cần phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, hiện nay vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung , Cần Thơ nói riêng vẫn là một vùng phát triển chậm về nhiều mặt và đang đứng trước nhiều thách thức rất lớn . Theo một thống kê mới đây cho thấy , tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1996-2000 chỉ đạt 6 % , thấp hơn bình quân cả nước (6,9 % ) , tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước năm 1996 chỉ đạt 18,3 % và đến năm 2000 , con số đó lại giảm xuống còn 17,2 % . Năm 2005 , được coi là năm có tốc độ tăng trưởng khá cao , nhưng tổng giá trị tăng thêm của toàn vùng cũng chỉ đạt 141.138 tỷ đồng Việt Nam . Đáng lưu ý là , tỷ trọng khu vực I vẫn còn lớn (chiếm tới 46,58 % ) , trong khi khu vực II chỉ đạt 23,32 % . Điều này cho thấy , nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá của vùng còn rất chậm chạp . Có thể kể ra nhiều nguyên nhân khác nhau , nhưng theo chúng tôi , một trong những nguyên nhân chi phối nhất là việc quy hoạch và đầu tư phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung , thành phố Cần Thơ nói riêng chưa đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, chưa kể còn có sự lãng phí lớn trong phân bổ nguồn lực đầu tư . Tình trạng chia cắt , bó hẹp theo địa giới hành chính đã làm cho nguồn lực đầu tư vốn đã rất ít ỏi lại bị phân tán , manh mún . Theo báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 20

120

năm đổi mới , thì chỉ tính riêng 3 vùng kinh tế trọng điểm đã đóng góp tới 60 % GDP cả nước , đó là một bài học lớn . Nhưng ngược lại , việc chậm xác định các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế trọng điểm thứ tư của cả nước thì lại là một khuyết điểm . Thử nghĩ , tổng GDP của cả 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long chỉ chiếm 17-18% GDP cả nước . Tỉnh Cần Thơ trước đây , thành phố Cần Thơ ngày nay được coi là trung tâm của vùng nhưng tỷ trọng đó cũng chưa tới 2 % , mà lẽ ra đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ hoàn toàn có thể đóng góp lớn hơn nhiều . Thực trạng đó có thể nhìn nhận theo nhiều cách khác nhau , nhưng tựu trung vẫn nói lên một điều là vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung , thành phố Cần Thơ nói riêng đang tụt hậu khá xa so với một số vùng trong nước . Đó là một thực tế không thể phủ nhận , cho dù đó là một sự thật không lấy gì làm vui vẻ . Đi đôi với tình trạng tụt hậu kinh tế , các chỉ số về phát triển con người ( HDI ) từ chỉ số về thu nhập , cho đến vấn đề giáo dục , đào tạo và dân trí; vấn đề chăm sóc sức khoẻ và tuổi thọ , v.v. của toàn vùng cũng rất thấp . 2. Bước vào thời kỳ mới , những dự báo tình hình thế giới , khu vực và trong nước nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng chắc chắn sẽ có tác động đến Cần Thơ và các tỉnh trong vùng với các mức độ khác nhau , cộng với những đặc điểm vốn có của nó , trong những năm tới thành phố Cần Thơ nói riêng và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói chung sẽ có những thời cơ mới , nhưng cũng sẽ gặp phải không ít những vấn đề gai góc đặt ra . Quan điểm cơ bản nhất để phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới là phải thay đổi tầm nhìn chiến lược ; từ việc chú trọng khai thác lợi thế so sánh là chủ yếu, chuyển mạnh sang chiến lược xây dựng lợi thế cạnh tranh ; đồng thời phải thay

121

đổi cả về chiến thuật và nghệ thuật trong lãnh đạo , quản lý , điều hành; phải tính toán lại hiệu quả và tính bền vững trong phát triển . Đồng bằng sông Cửu Long và Cần Thơ sẵn sàng gánh vác sứ mệnh lịch sử , quyết tâm tăng mức đóng góp đôi ba lần vào tăng trưởng chung của cả nước so với hiện nay , cũng như đã từng gánh vác sứ mệnh cao cả trong hai cuộc kháng chiến , cùng với miền Nam đi trước về sau ! Điều này hoàn toàn có cơ sở, nếu như có một cơ chế chính sách phù hợp .

Đảng bộ và nhân dân Cần Thơ cảm ơn sâu sắc Trung ương Đảng , Quốc hội , Chính phủ , các bộ , ban , ngành Trung ương và các tỉnh , thành phố trong cả nước , vì trong thời gian qua đã dành cho Cần Thơ sự giúp đỡ thiết thực , có hiệu quả ; đặc biệt là Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 45/NQ -TW ngày 17-2-2005 " Về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước " và Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 42/2006 /NQ - TTg về cơ chế tài chính ưu đãi đầu tư đối với Cần Thơ . Đây là những điều kiện thuận , là cơ hội để Cần Thơ phát triển . Đảng bộ thành phố Cần Thơ xác định, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là đẩy mạnh phát triển kinh tế , thực hiện chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp , tiến hành đồng thời công cuộc công nghiệp hoá và đô thị hoá. Năm năm tới , chắc chắn sẽ là thời kỳ đầy gian nan , thử thách đối với Cần Thơ , đòi hỏi phải có sự nỗ lực vượt bậc . Đảng bộ và nhân dân thành phố Cần Thơ sẽ quyết phấn đấu đẩy mạnh phát triển kinh tế cả về tốc độ và chất lượng, quyết tâm làm cho GDP của thành phố lớn lên nhanh và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng GDP quốc gia ; sớm hình thành cơ cấu kinh tế công nghiệp thương mại , dịch vụ - nông nghiệp công nghệ cao . Đó chính là định hướng lớn trong Nghị quyết số 45 / NQ -TW của Bộ Chính trị và

122

cũng là quyết tâm chính trị của Đảng bộ và nhân dân thành phố Cần Thơ . Chúng tôi cho rằng công nghiệp sẽ là khâu trọng yếu để tạo bước phát triển đột biến trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố Cần Thơ . Trong 5 năm tới , toàn ngành công nghiệp phải tạo ra cho được mức tăng trưởng bình quân từ 21 % trở lên mỗi năm . Với tiềm năng khá đa dạng và những điều kiện khách quan thuận lợi cho phép thương mại - dịch vụ - du lịch của thành phố phát triển mạnh , đạt tốc độ tăng bình quân từ 14,5 - 15 % trở lên mỗi năm . Sắp tới , trong một thời gian nhất định , nông nghiệp ven thành phố vẫn giữ một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế thành phố Cần Thơ . Trước mắt , nông nghiệp thành phố Cần Thơ tập trung vào hai hướng chính , Một là : tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao , hướng mạnh vào xuất khẩu ; Hai là : đẩy mạnh việc cung ứng dịch vụ - kỹ thuật nông nghiệp chất lượng cao và đa dạng cho cả vùng đồng bằng sông Cửu Long. 3. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nặng nề nói trên , chúng tôi thấy cần phải tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc sau đây : Một là, đề nghị Trung ương sớm xem xét quyết định chủ trương xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long thành vùng kinh tế trọng điểm thứ tư của cả nước . Xác định một số khu kinh tế mở để làm động lực cho toàn vùng . Sớm tiến hành điều chỉnh , bổ sung và phát triển quy hoạch toàn vùng cho phù hợp với yêu cầu mới , đầu tư nguồn lực phát triển thoả đáng ; thực hiện sự phân công , hợp tác nội vùng và giữa các vùng trong nước ; chủ động và tích cực hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới . Làm cho đồng bằng sông Cửu Long thật sự là một vùng phát triển năng động ,

123

đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Hai là, tập trung đầu tư mạnh vào hai lĩnh vực là xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và đào tạo nguồn nhân lực , đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học , công nghệ . Điểm then chốt nhất hiện nay về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bằng sông Cửu Long là đầu tư phát triển giao thông, kể cả đường bộ , đường thuỷ nội địa , đường biển , đường hàng không , đường sắt . Nhanh chóng khắc phục tình trạng hạ tầng giao thông lạc hậu , thiếu đồng bộ , xuống cấp trầm trọng như hiện nay . Để khắc phục tình trạng tụt hậu và bảo đảm sự phát triển bền vững của vùng đồng bằng sông Cửu Long , cần sớm thực hiện một chiến lược ưu tiên cho việc nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho cả vùng . Nếu kéo dài tình trạng dân trí thấp , chất lượng nguồn nhân lực kém , thì cho dù nghị quyết có hay đến mấy đồng bằng sông Cửu Long vẫn mãi là một vùng kém phát triển . Tất nhiên , Đảng bộ và nhân dân các địa phương không khoanh tay ngồi chờ . Ba là, phải tập trung làm tốt hơn nữa cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng , phải làm cho Đảng bộ thật sự trong sạch , vững mạnh trong thực tế chứ không phải chỉ trong lời nói , trong những chỉ tiêu . Xây dựng Đảng phải bắt đầu từ cơ sở . Phải làm cho tổ chức cơ sở đảng thật sự là nơi rèn luyện và sàng lọc đảng viên . Không thể có tình trạng nhiều đảng viên yếu kém khuyết điểm nhưng vẫn được xếp loại I và cơ sở vẫn trong sạch , vững mạnh . Lúc này hơn lúc nào hết , cần phải đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng, rèn luyện đạo đức , lối sống cán bộ , đảng viên . Đảng viên chức vụ càng cao , càng phải tu dưỡng , rèn luyện . Cấp trên làm gương cho cấp dưới , đảng viên làm gương cho quần chúng, kiên quyết chống quan liêu , tham nhũng, mất dân chủ trước hết là dân

124

chủ trong Đảng . Hiện nay , vấn đề nhân cách , đạo đức , lối sống của cán bộ , đảng viên , nhất là đảng viên có chức , có quyền nổi cộm lên bức xúc , vượt ra khỏi phạm trù đạo đức thông thường mà đã thật sự trở thành một vấn đề thuộc về niềm tin chính trị , niềm tin ở chân lý , niềm tin của cả dân tộc vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng .

125

CHÚ TRỌNG ĐÀO TẠO NGHỀ , GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NHÂN DÂN , NHẤT LÀ Ở VÙNG THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá )

Dưới sự tác động của tiến bộ khoa học - công nghệ những năm gần đây , định mức sử dụng lao động trong các ngành , các lĩnh vực đều giảm ; trong khi đó quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đặt ra yêu cầu chuyển diện tích đất nông nghiệp sang phát triển các khu đô thị , khu công nghiệp , xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng ngày càng lớn . Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đã tạo thuận lợi cho thu hút đầu tư, phát triển doanh nghiệp , góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách . Tuy nhiên , do diện tích đất thu hồi thường tập trung vào đất canh tác ở một số khu vực đông dân cư , thời gian triển khai thực hiện các dự án thường kéo dài nên trước mắt một bộ phận lao động bị thu hồi đất rơi vào tình trạng thất nghiệp hoặc thiếu việc làm . Thực trạng trên làm cho nhu cầu việc làm ngày càng gay gắt và giải quyết việc làm cho nhân dân trở thành vấn đề cấp bách . Nhận thức đầy đủ tính bức xúc của vấn đề lao động và việc làm , những năm qua chúng ta đã tăng cường công tác tuyên truyền , giáo

126

dục , làm thay đổi nhận thức , đổi mới tư duy về lao động việc làm cho phù hợp với nền kinh tế thị trường . Giải quyết việc làm được xác định là trách nhiệm của mọi người , mọi ngành , mọi cấp , của Nhà nước và của toàn xã hội . Người lao động phải chủ động tìm kiếm , tự tạo việc làm cho mình ; người sử dụng lao động, tạo nhiều việc làm cho xã hội được tôn vinh , khuyến khích . Nhiều địa phương cũng đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh sản xuất , kinh doanh dịch vụ , coi đó là nguồn gốc của việc làm và thu nhập của người lao động. Ngoài cơ chế chính sách của Nhà nước, nhiều tỉnh đã nghiên cứu ban hành nhiều cơ chế , chính sách riêng như: chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi , phát triển nuôi trồng thuỷ sản , phát triển các vùng nguyên liệu tập trung , chuyển dịch cơ cấu mùa vụ , phát triển tiểu thủ công nghiệp ; hỗ trợ đầu tư các cụm công nghiệp , làng nghề, khuyến khích phát triển xuất khẩu ; chính sách giải quyết các vấn đề đất đai , mặt bằng sản xuất , khuyến khích thu hút lao động, hỗ trợ đào tạo nghề, hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ kỹ thuật , cải cách các thủ tục hành chính , giải quyết khó khăn vướng mắc cho các hộ sản xuất kinh doanh và các doanh nghiệp . Đồng thời quan tâm đẩy mạnh xuất khẩu lao động, tổ chức giới thiệu việc làm , tổ chức các hội trợ việc làm , cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm , vốn của ngân hàng chính sách , tăng cường công tác đào tạo nghề , tạo cơ hội cho người lao động có điều kiện tự tạo và tự tìm kiếm việc làm . Nhờ đó , lĩnh vực lao động, việc làm cả nước đã có những chuyển biến tích cực . Người lao động đã chủ động hơn trong tìm kiếm việc làm . Các thành phần kinh tế đã mạnh dạn bỏ vốn đầu tư phát triển trang trại , thành lập doanh nghiệp . Thời kỳ 2001-2005 , riêng Thanh Hoá đã giải quyết việc làm mới cho 190.000 lao động, trong đó đưa đi lao động có thời hạn ở nước ngoài gần 15.000 người . Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị giảm từ 6,2 % năm 2001 xuống

127

còn 4,9 % ; tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 75,1 % lên 77,5 % vào năm 2005. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp giảm , tỷ trọng lao động trong khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ ngày càng tăng . Lĩnh vực đào tạo nghề trong cả nước cũng có những chuyển biến tiến bộ . Nhiều nơi đã quan tâm đầu tư, duy trì và nâng cao năng lực hoạt động của các trường dạy nghề , trung tâm dạy nghề, trung tâm giới thiệu việc làm , trung tâm giáo dục thường xuyên dạy nghề ở cấp huyện và khuyến khích đầu tư xây dựng nhiều cơ sở dạy nghề ngoài công lập . Thời kỳ 2001-2005 , Thanh Hoá đã có 142.000 người được đào tạo nghề ; tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 19 % năm 2001 lên 27 % năm 2005 . Bên cạnh những mặt làm được , công tác đào tạo nghề , giải quyết việc làm cũng còn những hạn chế , đó là : số người thiếu việc làm ở khu vực thành thị và nông thôn còn rất lớn ; tính ổn định , hiệu quả giải quyết việc làm còn thấp ; công tác xuất khẩu lao động còn thụ động . Thông tin về thị trường lao động chưa được cập nhật , phổ biến kịp thời . Những hạn chế nêu trên là do nhận thức của một số ngành , địa phương về vấn đề việc làm chưa đầy đủ và đúng đắn ; chỉ đạo , điều hành chương trình việc làm chưa thực sự kiên quyết . Chế độ thông tin , báo cáo về lao động việc làm chưa đầy đủ , kịp thời . Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan nêu trên còn có những nguyên nhân khách quan . Nhất là những tỉnh còn nghèo , sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao , khả năng nội lực hạn chế ; lại nằm xa các vùng kinh tế trọng điểm quốc gia , thu hút đầu tư khó khăn thì khả năng thu hút lao động , giải quyết việc làm càng hạn chế . Mặt khác , nguồn quỹ quốc gia giải quyết việc làm , vốn cho vay từ ngân hàng chính sách tuy có tác dụng tích cực nhưng nguồn vốn còn ít , chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn để tự tạo việc làm của nhân dân .

128

Để giải quyết những vấn đề bức xúc trong đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho nhân dân, nhất là vùng thu hồi đất nông nghiệp , chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp sau : Thứ nhất : Phải coi việc tổ chức thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 , trước hết là tổ chức triển khai có hiệu quả các chương trình kinh tế trọng điểm , rà soát bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách của từng địa phương để giải phóng sức sản xuất, thu hút đầu tư, khuyến khích phát triển các ngành, lĩnh vực là điều kiện cơ bản bảo đảm giải quyết việc làm , tăng thu nhập cho người lao động một cách bền vững . Thứ hai : Cần coi trọng đẩy mạnh công tác đào tạo nghề nhằm nâng cao khả năng tự tạo việc làm của người lao động . Để hoàn thành nhiệm vụ đào tạo nghề , các tỉnh cần tập trung xây dựng và thực hiện tốt quy hoạch mạng lưới các trường dạy nghề và coi trọng hoàn thiện cơ chế , chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng, mở rộng các cơ sở đào tạo nghề ; dạy nghề, truyền nghề và tiếp nhận nhiều lao động mới học nghề . Khuyến khích các cơ sở dạy nghề mở rộng quy mô đào tạo , nâng cao chất lượng dạy nghề , thực hiện tốt phương thức "học đi đôi với hành " , lý thuyết gắn với thực tiễn , nhà trường gắn với các cơ sở sản xuất kinh doanh . Mặt khác , các doanh nghiệp cần chủ động đặt hàng với các cơ sở đào tạo cả về số lượng và chất lượng. Thứ ba : Tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp giải quyết việc làm thông qua việc thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo , mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay từ quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm , cho vay vốn từ ngân hàng chính sách đối với các hộ sản xuất kinh doanh , các doanh nghiệp vừa và nhỏ , các trang trại , làng nghề có khả năng tạo nhiều việc làm mới ; thực hiện tốt các dự án hỗ trợ dạy nghề , tạo việc làm cho lao động thuộc vùng dân tộc thiểu số , các đối tượng yếu thế và người tàn tật ; đầu

129

tư xây dựng, nâng cao năng lực các trung tâm giới thiệu việc làm , tăng cường tổ chức các hội chợ việc làm , xây dựng trang thông tin việc làm nhằm giúp người lao động, người sử dụng lao động, các cơ sở đào tạo kịp thời nắm bắt thông tin về lao động việc làm . Thứ tư : Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia , coi đây là một trong những hướng ưu tiên trong chiến lược giải quyết việc làm , nâng cao thu nhập cho người lao động. Để làm tốt nhiệm vụ này, một mặt cần tập trung chỉ đạo mở rộng thị trường xuất khẩu lao động ; mặt khác , coi trọng chuyển mạnh từ xuất khẩu lao động phổ thông sang xuất khẩu lao động có trình độ kỹ thuật cao và chuyên gia . Thứ năm : Để giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm đối với các hộ phải thu hồi đất , cần phải coi trọng gắn quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp với kế hoạch đào tạo nghề và sử dụng lao động bị thu hồi đất ; tăng cường công tác tuyên truyền , hướng dẫn , vận động và hỗ trợ nhân dân chủ động học nghề để chuyển nghề và tìm việc làm phù hợp ; khuyến khích nông dân tham gia góp vốn vào doanh nghiệp bằng tiền đền bù đất . Đồng thời khuyến khích , vận động và giao trách nhiệm cho các doanh nghiệp sử dụng đất ưu tiên tuyển dụng lao động địa phương vào làm việc ; có cơ chế khuyến khích phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp , dịch vụ và những ngành nghề có khả năng thu hút nhiều lao động .

Ngoài những giải pháp trên , để giúp các tỉnh giải quyết tốt vấn đề lao động và việc làm , đề nghị Trung ương quan tâm tới một số nội dung sau : Một là : Hiện nay , do sự phân bổ lực lượng sản xuất chưa phù hợp giữa các vùng , miền dẫn đến mất cân đối về cung cầu lao động theo lãnh thổ ; ở các vùng kinh tế trọng điểm , các doanh nghiệp phát triển mạnh dẫn đến tình trạng thiếu hụt lao động , các tỉnh ở

130

xa vùng kinh tế trọng điểm quốc gia , các tỉnh miền núi lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu hút đầu tư và quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, giải quyết việc làm . Từ thực tế trên , trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia , cần có quy hoạch phân bổ lực lượng sản xuất hợp lý giữa các vùng, miền ; quan tâm đầu tư xây dựng các khu kinh tế động lực , bố trí các dự án trọng điểm , có chính sách khuyến khích đủ sức hấp dẫn để thu hút đầu tư vào vùng có nhiều lao động dư thừa , có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn . Hai là : Trong những năm qua , nguồn vốn cho vay từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm , vốn của ngân hàng chính sách đã có tác dụng tích cực góp phần giải quyết việc làm , xoá đói giảm nghèo cho nhân dân . Tuy nhiên , nguồn vốn này còn ít , chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Đề nghị tiếp tục tăng vốn cho Quỹ quốc gia giải quyết việc làm , tăng vốn tín dụng của ngân hàng chính sách và ưu tiên phân bổ vốn thoả đáng cho những địa phương có nhiều lao động thiếu việc làm và có tỷ lệ đất nông nghiệp bị thu hồi lớn . Ba là : Để giải quyết tốt việc làm cho các hộ bị thu hồi đất , tạo thuận lợi cho công tác giải phóng mặt bằng, đề nghị có quy định thống nhất việc xây dựng phương án giải quyết việc làm , ổn định đời sống cho người lao động không còn đất sản xuất , coi đây là bộ phận cấu thành bắt buộc trong phương án bồi thường , giải phóng mặt bằng ; quy định thống nhất kinh phí hỗ trợ chuyển đổi nghề cho người bị thu hồi đất ; khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng đất tạo điều kiện cho nông dân góp cổ phần bằng tiền đền bù , tuyển dụng lao động và tham gia chuyển đổi nghề , giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất . Bốn là : Nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu lao động , đề nghị quy định rõ tiêu chuẩn , trách nhiệm của những doanh nghiệp xuất khẩu lao động và có chế tài xử lý

131

nghiêm những tập thể và cá nhân có sai phạm . Bảo đảm chỉ có những doanh nghiệp đủ mạnh và có trách nhiệm với người lao động mới được phép hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động . Đảng cần có chính sách khuyến khích , tạo điều kiện cho đảng viên có vốn , có kinh nghiệm đầu tư vào phát triển sản xuất , kinh doanh . Coi họ là lực lượng quan trọng góp phần trực tiếp thúc đẩy kinh tế phát triển ; đồng thời xây dựng họ thành những mẫu mực để thu hút , sử dụng lao động và thực hiện chính sách với người lao động .

132

PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 2010 ĐƯA BẾN TRE THOÁT KHỎI TÌNH TRẠNG TỈNH NGHÈO , GÓP PHẦN THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X CỦA ĐẢNG

( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre )

Các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã thể hiện rõ tính lý luận và thực tiễn sâu sắc . Đảng bộ Bến Tre cũng rất tán thành và hưởng ứng việc Trung ương công bố Dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến rộng rãi các cấp , các ngành , các địa phương , các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước , thu hút hàng vạn ý kiến góp ý chân tình , thẳng thắn , đầy tâm huyết để xây dựng Đảng , xây dựng đường lối phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Chủ trương trên đã thể hiện tính dân chủ cao của Đảng ta nhằm phát huy và tập hợp tối đa trí tuệ của mọi giai tầng trong xã hội vào công việc chung của Đảng và đất nước . Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã tổ chức cho cán bộ , đảng viên và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh tham gia góp ý vào Dự thảo Báo cáo chính trị . Ý kiến , nguyện vọng, tâm tư, tình cảm của đảng viên và nhân dân Bến Tre đối với Đảng đã được tổng hợp báo cáo đầy đủ về Trung ương theo đúng quy định . Tại diễn đàn Đại hội hôm nay , thay mặt Đoàn đại biểu Đảng bộ Bến Tre , chúng tôi xin phát biểu một số vấn đề си the sau : · - Vấn đề thứ nhất, về chủ đề Đại hội X , Dự thảo Báo cáo chính trị nêu : "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của

133

Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Qua nghiên cứu , thảo luận , chúng tôi hoàn toàn thống nhất với nội dung chủ đề mà Dự thảo Báo cáo chính trị đã nêu . Đảng ta là đảng cầm quyền , là lực lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện đất nước . Trong hành trình 76 năm qua , Đảng luôn không ngừng xây dựng , chỉnh đốn để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của mình , đáp ứng yêu cầu , nhiệm vụ cách mạng đòi hỏi , nhờ đó đã làm tốt vai trò hạt nhân lãnh đạo , tập hợp , đoàn kết phát huy sức mạnh toàn dân tộc giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như giành được những thành tựu quan trọng , to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới đất nước 20 năm qua . Ngày nay , sự nghiệp đổi mới của Đảng ngày càng phát triển cả chiều rộng lẫn chiều sâu , quá trình hội nhập quốc tế ngày càng mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho sự phát triển , nhưng cũng gặp phải sự cạnh tranh gay gắt về kinh tế , cùng với sự chống phá của các thế lực thù địch , nhằm thủ tiêu Đảng và xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta ; tình hình suy thoái về tư tưởng , đạo đức , lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên , đặc biệt là đảng viên có chức , có quyền không chỉ gây bất bình trong dư luận mà còn làm cho bản thân Đảng suy yếu , giảm sút sức chiến đấu ; sự phân tầng và khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và ngay cả trong nội bộ Đảng ngày càng nhiều hơn . Tình hình đó đã tạo nên nguy cơ rạn nứt sự đoàn kết trong Đảng và lòng tin trong nhân dân , làm suy giảm sức mạnh khối đại đoàn kết . Trước tình hình trên , Đảng muốn tồn tại và làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng thì phải không ngừng đổi mới , xây dựng , chỉnh đốn , củng cố để "không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , (và ) phát huy sức mạnh toàn dân tộc " để đủ sức lãnh đạo và tiếp tục giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .

134

Chúng tôi cũng đồng tình cao với chủ trương "đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đây là con đường duy nhất để nước ta khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới; đồng thời phấn đấu để đến năm 2020 , nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Qua thảo luận cũng có ý kiến đề xuất thêm cụm từ "xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ” sau cụm từ "không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng " . Như vậy sẽ đầy đủ hơn . Nhưng qua phân tích thấy rằng cụm từ "nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng " nội hàm của nó cũng đã bao trùm việc xây dựng và nâng cao năng lực và sức chiến đấu của cả hệ thống chính trị . Vì Đảng vừa là thành viên , cũng vừa giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị ; ngược lại , các tổ chức trong hệ thống chính trị là cơ sở chính trị , xã hội của Đảng ; thì không có lý do nào Đảng mạnh mà để cho hệ thống chính trị , cơ sở chính trị, xã hội của Đảng yếu kém . Với các lẽ trên , chúng tôi hoàn toàn thống nhất với chủ đề Đại hội X mà Dự thảo Báo cáo chính trị đã nêu . Nội dung chủ đề Đại hội đã khái quát và hàm chứa được tư tưởng chỉ đạo và nhiệm vụ then chốt đặt ra trong giai đoạn cách mạng mới .

Vấn đề thứ hai , về phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010. Chúng tôi cơ bản thống nhất về mục tiêu , nhiệm vụ , các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội cũng như những định hướng và chính sách phát triển cho từng vùng, ngành , như Dự thảo đã nêu . Song , chúng tôi xin phát biểu thêm vấn đề си

thể sau : Xu thế chung của thế giới và ở nước ta hiện nay đều hướng tới mục tiêu phát triển , nhưng phải đảm bảo tính bền vững . Rút kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển trước đây , chỉ tập trung bằng mọi giá đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế mà không chú ý đến các yếu tố xã hội , chăm lo cho con người và bảo vệ tài nguyên

135

môi trường , phải gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề , thậm chí lâm vào khủng hoảng ; xuất phát từ thực tiễn 20 năm đổi mới , lần này Dự thảo Báo cáo nêu khá đầy đủ và toàn diện về định hướng và chính sách đầu tư cho phát triển các vùng , miền , ngành . Trong toàn bộ nội dung đó , chúng tôi quan tâm 3 vấn đề và đây là 3 vấn đề cơ bản bảo đảm cho phát triển nhanh, bền vững .

Trước hết , chúng tôi rất tâm đắc chủ trương tiếp tục quy hoạch phát triển vùng, đó là : xây dựng 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc , Trung ,

Nam ; vùng kinh tế biển , vùng duyên hải miền

Trung ; vùng trung du , miền núi Bắc Bộ và Tây Nguyên ; vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long . Thực tế vừa qua cho thấy : tuy có định hướng phát triển vùng nhưng chưa có chính sách cụ thể nên sự phát triển giữa các vùng còn chậm và không đồng đều . Cụ thể như vùng đồng bằng sông Cửu Long, Bộ Chính trị có Nghị quyết 21 về phát triển toàn diện vùng đồng bằng sông Cửu Long , nhưng việc đầu tư chưa tập trung và còn hạn chế nên phát triển còn chậm , một số lĩnh vực tụt hậu so với mức bình quân chung của cả nước , nhất là kết cấu hạ tầng , giáo dục - đào tạo , y tế, v.v .. Nguyên nhân của nó là do chưa có định hướng và cơ chế, chính sách cụ thể cho từng vùng , nên việc đầu tư còn dàn trải , thiếu tập trung nên chưa làm bật dậy tiềm năng, thế mạnh của từng vùng , hoặc có định hướng mà quá trình tổ chức thực hiện chưa tốt . Hy vọng rằng , với định hướng và chính sách đầu tư cùng hàng loạt giải pháp được nêu trong Dự thảo sẽ là bước đột phá thúc đẩy các vùng phát triển nhanh , toàn diện và đồng đều hơn , góp phần thúc đẩy đất nước vừa phát triển nhanh , vừa đảm bảo tính bền vững . Ngoài ra , để có thể thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh ở các vùng , vấn đề cơ bản mang tính nền tảng , động lực cho sự phát triển là đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội , " xem đây là khâu đột phá trong giai đoạn phát triển đất nước hiện

136

nay". Chúng tôi đồng tình cao với định hướng này . Thực tế cho thấy , nơi nào kết cấu hạ tầng được đầu tư phát triển nhanh , đồng bộ thì kéo theo sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội . Kinh nghiệm từ thực tế Bến Tre những năm qua đã chứng minh : sự quan tâm

đầu tư của Trung ương và sự đóng góp của nhân dân tập

trung xây dựng kết cấu hạ tầng vùng nông thôn đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội Bến Tre phát triển , đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện . Chúng tôi thống nhất cao về định hướng phát triển kết cấu hạ tầng , nhưng cần xác định cụ thể vùng nào , ưu tiên lĩnh vực nào . Đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long , vấn đề ưu tiên hàng đầu là giao thông, bến bãi , thuỷ lợi, điện , giáo dục - đào tạo , y tế . Nhưng, trong đầu tư xây dựng các công trình cần có sự đồng bộ và sớm hoàn thành , như vậy sẽ phát huy hiệu quả cao , nếu để kéo dài chẳng những gây lãng phí, kém hiệu quả mà còn làm giảm lòng tin của nhân dân . Cụ thể đối với Bến Tre , có nhiều công trình dự án do Trung ương đầu tư kéo dài rất nhiều năm mà vẫn chưa hoàn thành , như dự án 18 về đê sông, biển ; dự án công trình thủy lợi ngọt hoá Bắc Bến Tre - một công trình thuỷ lợi lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long nhưng chỉ mới hoàn thành hạn mục cống đập Ba Lai , còn hàng chục hạng mục khác hơn 2 năm nay chưa triển khai thực hiện , chưa phát huy được hiệu quả đầu tư . Trong chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần ưu tiên có trọng điểm theo đặc điểm và thế mạnh của từng vùng , cấp đầy đủ vốn , kiểm tra , đôn đốc , thực hiện đúng tiến độ , bảo đảm chất lượng , sớm đưa vào khai thác các công trình trọng điểm . Có như vậy mới tránh được tiêu cực , lãng phí, thất thoát như vừa qua .

Vấn đề thứ ba, giải quyết tốt các vấn đề văn hoá - xã hội, môi trường . Đây là yếu tố quyết định cho phát triển nhanh và bền vững . Chúng tôi đồng tình cao với định hướng phát triển văn hoá , xã

137

hội và bảo vệ môi trường như trong Dự thảo . Nhưng, như chúng ta đều biết , một dân tộc mà để mất bản sắc văn hoá thì dân tộc đó chỉ là cái bóng mờ của dân tộc khác . Một xã hội mà không có văn hoá thì xã hội đó sẽ rối loạn . Trong mọi hoạt động kinh tế mà không có văn hoá định hướng thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội . Về tài nguyên môi trường , nếu chỉ lo khai thác tài nguyên càng nhiều càng tốt , bất kể đến yếu tố môi trường , cốt sao cho có nhiều lợi nhuận mà không tính toán đến giữ gìn thì đến lúc nào đó tài nguyên sẽ cạn kiệt và môi trường bị ô nhiễm dẫn đến hậu quả chẳng những cho xã hội hiện tại mà cả trong tương lai cũng phải gánh chịu . Trong giai đoạn 2001 - 2005 , Trung Quốc đã bỏ ra trên 600 ngàn tỷ nhân dân tệ để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường và xây dựng hành lang pháp lý về bảo vệ môi trường . Nên chăng đối với nước ta , trong định hướng phát triển văn hoá - xã hội và bảo vệ môi trường , trong thời gian tới cần có mức đầu tư thoả đảng hơn và xây dựng hành lang pháp luật về bảo vệ môi trường, như vậy chính sách sẽ toàn diện , khả thi và hiệu quả hơn . Về xây dựng và phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội , từ Đề cương về văn hoá năm 1943 của Đảng đến nay , trong các văn kiện Đại hội , Đảng ta luôn đặt vấn đề xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc . Gần đây, trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) , chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên lĩnh vực văn hoá . Tuy vậy , sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá cũng như sự du nhập ồ ạt thiếu chọn lọc các yếu tố văn hoá nước ngoài đã ít nhiều ảnh hưởng đến những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc . Tư tưởng , đạo đức và lối sống của một bộ phận cán bộ , đảng viên , thanh niên , học sinh có sự suy thoái và xuống cấp rất đáng lo ngại . Chúng tôi đề nghị , cùng với các chủ trương và giải pháp về " phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội " như Dự thảo

138

Văn kiện đã nêu , cần có những biện pháp tích cực để tạo sức đề kháng và sức mạnh tinh thần cho mỗi tổ chức, cá nhân không bị những loại "văn hoá đồi truỵ " xâm nhập , giữ gìn được bản sắc riêng của mình ; ngăn chặn sự xâm nhập của các loại sản phẩm văn hoá tư tưởng độc hại từ bên ngoài vào. Hiện nay, dư luận rất bức xúc về sự xâm nhập của những sản phẩm văn hoá - tư tưởng có nội dung xấu từ bên ngoài vào qua nhiều con đường, nhất là trên mạng Internet -nhưng ta chưa có biện pháp tích cực để ngăn chặn. Có thực hiện tốt nhiệm vụ này thì về lâu dài chúng ta mới xây dựng được nền văn hoá tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc , thực sự là nền tảng tinh thần trong đời sống xã hội . Cũng trong định hướng và chính sách giải quyết các vấn đề văn hoá - xã hội , chúng tôi đề nghị quan tâm đẩy mạnh hơn công tác xoá đói giảm nghèo , bảo đảm công bằng trong chính sách tiền lương giữa hai khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh , nhằm rút ngắn khoảng cách giàu - nghèo trong Đảng cũng như trong xã hội . Đặc biệt, phải đẩy lùi cho được tội phạm , nhất là tội phạm ma tuý và một số tệ nạn khác đang gây bức xúc trong dư luận cả nước . Nhìn chung , các nội dung định hướng về chính sách phát triển ngành , vùng, miền và cả nước nêu trong Dự thảo báo cáo khá toàn diện và sâu sắc . Tuy nhiên , cần phải quan tâm đến vấn đề си the hoá và tổ chức thực hiện . Yếu kém nhất của chúng ta trong thời gian qua là ở khâu cụ thể hoá và tổ chức thực hiện . Rất nhiều nghị quyết đúng đắn , kịp thời nhưng do khâu cụ thể hoá và tổ chức thực hiện yếu kém nên nghị quyết chậm đi vào cuộc sống và hiệu quả không cao . Trong thời gian tới , chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm đến khâu tổ chức thực hiện . Nếu cụ thể hoá nghị quyết phù hợp thực tiễn và tổ chức thực hiện tốt thì sẽ đưa tốc độ tăng trưởng ở nước ta tăng nhanh và phát triển bền vững, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

139

PHÁT TRIỂN CÓ HIỆU QUẢ NUÔI TRỒNG , ĐÁNH BẮT VÀ CHẾ BIẾN THỦY SẢN ( Tham luận của đồng chí Võ Thanh Bình , Bí thư Tỉnh uỷ Cà Mau , Đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau )

Cà Mau là tỉnh địa đầu cực Nam của Tổ quốc , có diện tích 5.211 km , dân số 1.225.000 người . Cà Mau có ba mặt giáp biển, chiều dài bờ biển là 254 km , ngư trường rộng trên 80.000 km , hệ thống sông rạch chằng chịt . Đất mũi Cà Mau có khu vực Bãi Bồi rộng gần 3.000 km , hàng năm phù sa bồi đắp , tiến dần ra biển. Với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi nêu trên , Cà Mau có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản cả về nuôi trồng, đánh bắt , chế biến ; được xem là vùng trọng điểm thuỷ sản của khu vực đồng bằng sông Cửu Long và cả nước . Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội lần thứ XII Đảng bộ tỉnh , những năm qua , tình hình kinh tế xã hội của Cà Mau trên các mặt đều có bước phát triển , tiến bộ , nhất là kinh tế thuỷ sản có sự phát triển khá nhanh , đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế địa phương và góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển của ngành thuỷ sản cả nước . Năm 2005 , sản lượng thủy sản của tỉnh đạt trên 260.000 tấn (chiếm 15 % sản lượng thuỷ sản toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long và chiếm 7,8 % sản lượng thủy sản của cả nước ) , trong đó có 96.000 tấn tôm (chiếm trên 40 % sản lượng tôm của toàn vùng và 21,7 % sản lượng tôm cả nước) ; kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản chiếm 20 % kim

140

ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước . Kinh tế thuỷ sản Cà Mau phát triển khá toàn diện trên cả ba mặt : nuôi trồng, đánh bắt , chế biến và đã thật sự là ngành kinh tế mũi nhọn , là động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác của tỉnh cùng phát triển . Về nuôi trồng thuỷ sản: Từ năm 2001 , được Chính phủ cho phép , tỉnh đã thực hiện chủ trương chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp từ nông - lâm - ngư nghiệp sang ngư - nông lâm nghiệp . Cụ thể là đã chuyển trên 130.000 ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với trồng một vụ lúa ; nâng tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản toàn tỉnh lên 277.000 ha (chiếm 42 % diện tích nuôi trồng thuỷ sản toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long và chiếm 27,6% diện tích nuôi trồng thuỷ sản cả nước) . Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã tạo ra sức sản xuất mới , cho phép Cà Mau khai thác có hiệu quả hơn tiềm năng , lợi thế của tỉnh ; đưa sản xuất nông nghiệp chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá - mà chủ yếu là hàng hoá xuất khẩu . Trong bước chuyển vừa qua , tỉnh đã hình thành tương đối rõ nét các vùng sản xuất : hệ sinh thái nước mặn , ngọt , lợ với tiềm năng đa dạng sinh học phong phú . Trong tổng số 277.000 ha diện tích nuôi trồng thuỷ sản , tỉnh bố trí 240.000 ha nuôi tôm (bao gồm nuôi công nghiệp , nuôi tôm kết hợp với trồng một vụ lúa , nuôi sinh thái với mô hình tôm - rừng và nuôi tôm kết hợp với các loại thuỷ sản khác) .

Hiện nay, tỉnh đang chú trọng chỉ đạo phát triển mô hình nuôi tôm sinh thái , tạo ra sản phẩm sạch , chất lượng cao, đáp ứng đòi hỏi khắt khe của các thị trường khó tính trên thế giới , bảo đảm hiệu quả và bền vững. Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích nuôi trồng thuỷ sản sau khi chuyển đổi sản xuất , bình quân cao hơn từ 2,5 đến 3 lần so với trước . Đời sống của đại bộ phận nông dân được cải thiện rõ rệt , hàng chục ngàn hộ đã thoát nghèo , vươn lên khá ,

141

giàu , xây được nhà ở , mua sắm các phương tiện đi lại , trang thiết bị nghe nhìn , thiết bị điện , điện thoại ... từ nguồn thu nhập nuôi trồng thuỷ sản . Bộ mặt nông thôn đã có nhiều thay đổi, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được đầu tư, phát triển , các điều kiện về đi lại , ăn , ở , học hành , sinh hoạt văn hoá , khám chữa bệnh ... của nhân dân ngày càng được bảo đảm và không ngừng nâng lên . Về đánh bắt thuỷ sản : Sau cơn bão số 5 năm 1997 , ngành đánh bắt thuỷ sản của tỉnh bị thiệt hại nặng nề về người và tài sản , nhất là nguồn nhân lực có tay nghề , có kinh nghiệm khai thác biển . Được sự hỗ trợ của Trung ương , tỉnh đã nhanh chóng quy hoạch , đầu tư, sắp xếp lại nghề khai thác biển theo hướng khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên biển , gắn với bảo đảm an ninh - quốc phòng trên biển . Phát triển đội tàu đánh bắt xa bờ , chuyển đổi ngành nghề khai thác gần bờ gây thiệt hại nguồn lợi thuỷ sản sang khai thác xa bờ , bám biển dài ngày , nghề khai thác ít tiêu hao nhiên liệu và nghề nuôi biển (chủ yếu là lưới vây , câu mồi , câu mực ... ) ; tăng cường đào tạo , bổ sung lực lượng ngư dân có tay nghề ; từng bước xây dựng hệ thống dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác biển . Đến nay , đội tàu khai thác của tỉnh có trên 3.500 chiếc với tổng công suất trên 330.000 mã lực , trong đó có trên 1.000 tàu có công suất từ 90 mã lực trở lên . Sự đầu tư chuyển đổi ngành nghề đã giúp việc bảo vệ , khai thác nguồn tài nguyên biển ngày càng tốt hơn (nhất là bảo vệ , khai thác hợp lý nguồn lợi thuỷ sản khu vực Bãi Bồi , mũi Cà Mau) ; sản lượng đánh bắt và hiệu quả khai thác biển ngày càng cao ; đời sống ngư dân được cải thiện .

Về chế biến xuất khẩu thuỷ sản : Sự chuyển mạnh trong nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản , tạo ra nguồn nguyên liệu hàng hoá lớn cung ứng cho ngành chế biến xuất khẩu , kích thích ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản phát triển nhanh , nhảy vọt cả về công

142

nghệ , công suất , sản lượng và trình độ quản lý, nâng cao hơn sức cạnh tranh trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế . Những năm qua , các doanh nghiệp trong tỉnh đã đầu tư gần 1.000 tỷ đồng cho đổi mới công nghệ chế biến thủy sản xuất khẩu , kết hợp đầu tư mở rộng quy mô sản xuất theo chiều sâu , hiện đại hoá sản xuất , nhất là đẩy mạnh đầu tư các thiết bị công nghệ hiện đại , tăng nhanh năng lực chế biến sản phẩm giá trị gia tăng. Hiện nay , tỉnh đã vươn lên dẫn đầu cả nước về chế biến xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu thủy sản . Toàn tỉnh có 26 xí nghiệp , tổng công suất chế biến theo thiết kế 126.000 tấn / năm , tăng hơn hai lần so với năm 2000. Nhìn chung, các nhà máy chế biến thủy sản đã đạt trình độ công nghệ và trình độ quản lý ngang tầm với các nước trong khu vực và tiếp cận được trình độ công nghệ tiên tiến , có khả năng cạnh tranh và hội nhập với thị trường thế giới ; đã có 17 nhà máy được cấp Code xuất khẩu hàng vào châu Âu ; tỷ lệ hàng giá trị gia tăng ngày càng cao , năm 2005 đạt 43,4 % (cả nước đạt khoảng 40 % ) . Sản lượng chế biến thuỷ sản năm 2005 đạt 75.000 tấn , trong đó có 60.000 tấn xuất khẩu và 15.000 tấn tiêu thụ trong nước . Về xuất khẩu : Sản phẩm thuỷ sản của tỉnh có mặt ở hầu hết các thị trường châu Mỹ, châu Âu, châu Á và thị trường trong nước , với trên 100 khách hàng ổn định . Nhờ làm tốt công tác xúc tiến thương mại , nên mặc dù mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam luôn biến động do một số rào cản thương mại trên thị trường thế giới , nhưng sản phẩm thuỷ sản của tỉnh vẫn được xuất khẩu khá ổn định và liên tục tăng trưởng . Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của tỉnh tăng bình quân hàng năm trên 10% , đạt 510 triệu USD vào năm 2005 , tăng gấp đôi so với năm 2001 , chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của cả nước . Những kết quả nêu trên đã tạo ra những tiền đề quan trọng cho kinh tế thuỷ sản của tỉnh tiếp tục phát triển có hiệu quả và bền vững , góp phần hoàn thành mục tiêu , nhiệm vụ của cả nước .

143

Tuy nhiên , nhìn một cách tổng thể , kinh tế thủy sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung , của tỉnh Cà Mau nói riêng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế . Đáng chú ý là : Trong nuôi trồng thuỷ sản , việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất có lúc , có nơi diễn ra ồ ạt , tự phát , làm suy giảm môi trường sinh thái , tăng độ rủi ro trong sản xuất . Mặt khác , một số yếu tố quan trọng phục vụ sản xuất như thủy lợi , giống , kỹ thuật ... chưa đáp ứng kịp yêu cầu . Đây là bài học đắt giá cần được tiếp tục rút kinh nghiệm . Vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản còn gặp nhiều khó khăn , nhất là đầu tư xây dựng hệ thống thuỷ lợi . Theo nhu cầu , Cà Mau cần khoảng 4.000 tỷ đồng để đầu tư thuỷ lợi , nhưng chưa có nguồn vốn đầu tư . Thời gian qua , ngân sách tỉnh chỉ có khả năng đầu tư khoảng 50 tỷ đồng/ năm để thực hiện những công trình bức xúc, còn lại chủ yếu là nhân dân tự đầu tư làm thuỷ nông nội đồng , nên hệ thống thuỷ lợi chưa đáp ứng được yêu cầu . Nghề khai thác biển của Cà Mau chưa được quan tâm đầu tư đúng mức , nhất là về kỹ thuật đánh bắt, dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác biển và ngành công nghiệp sửa chữa , đóng mới tàu thuyền còn nhỏ bé . Đặc biệt , do hệ thống giao thông bộ chưa được đầu tư đến các cửa biển và hệ thống cảng biển chưa được đầu tư xây dựng , nên dịch vụ hậu cần cho khai thác biển chưa phát triển, nhất là thị trường nội địa để tiêu thụ sản phẩm khai thác còn rất bấp bênh . Ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản của tỉnh mặc dù đã được đầu tư tương đối hiện đại so với cả nước , nhưng so với trình độ chung của thế giới thì vẫn còn hạn chế. Tỷ trọng sản phẩm giá trị gia tăng còn thấp và chưa có nhiều mặt hàng tinh chế. Đây là hạn chế chung của tỉnh và của ngành thủy sản cả nước , cần sớm được khắc phục trong thời gian tới . Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do trình độ dân trí

144

thấp , tập quán sản xuất lạc hậu , ứng dụng khoa học - công nghệ chưa nhiều , kết cấu hạ tầng yếu kém và thiếu vốn đầu tư . Bên cạnh đó , công tác lãnh đạo , chỉ đạo còn hạn chế , lúng túng . Nếu những khó khăn , hạn chế trên đây được tháo gỡ , nhất là về vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản và vốn đầu tư cho giao thông , vận tải , lưu thông hàng hoá , chắc chắn kinh tế thuỷ sản của Cà Mau sẽ phát triển mạnh hơn , hiệu quả và bền vững hơn .

Kinh tế thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng của cả nước , có tác động rất lớn đến sự phát triển của nhiều tỉnh ven biển từ Bắc chí Nam . Sự phát triển của ngành thủy sản ảnh hưởng trực tiếp và gắn liền với một bộ phận khá lớn nhân dân , nhất là đối với Cà Mau và các tỉnh miền Tây Nam Bộ . Nước ta là một trong những nước xuất khẩu thuỷ sản mạnh trên thế giới, với nhiều thị trường đã được xác lập và thị phần ngày càng tăng; sản phẩm thủy sản của Việt Nam trở thành thương hiệu quen thuộc , được ưa chuộng của khách hàng quốc tế. Nhu cầu của thị trường thế giới về mặt hàng thủy sản có xu hướng tăng. Vì vậy , trong thời gian tới , ngành kinh tế thủy sản của nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển . Trên cơ sở quán triệt tinh thần chỉ đạo của Trung ương về phát triển kinh tế thuỷ sản đã nêu trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X , Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XIII Đảng bộ tỉnh Cà Mau đã xác định thuỷ sản vẫn tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn , con tôm vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực . Phấn đấu đến năm 2010 , sản lượng thủy sản đạt 390.000 tấn (gần 10 % chỉ tiêu phấn đấu của cả nước) , sản lượng chế biến và xuất khẩu thủy sản đạt trên 100.000 tấn , kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt trên 1 tỷ USD (chiếm 25 % chỉ tiêu phấn đấu của cả nước) . Phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng sản xuất hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu và thị trường nội địa , đi đôi với bảo vệ môi trường sinh

145

thái ; chuyển đổi cơ cấu khai thác theo hướng xa bờ và chuyển đổi ngành nghề khai thác phù hợp với từng ngư trường để nâng cao giá trị hàng hoá , sử dụng hợp lý nguồn lợi , giảm chi phí . Nâng cao sức cạnh tranh , bảo đảm tăng trưởng bền vững trong sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản . Để đạt được mục tiêu đó, từ kinh nghiệm những năm qua và yêu cầu cho sự phát triển trong thời gian tới , Cà Mau xác định tiếp tục đầu tư có chiều sâu để phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản , nâng cao hơn nữa năng suất , sản lượng và hiệu quả trong nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản . Trong đó , chú trọng các giải pháp chỉ đạo sản xuất theo mô hình đa canh có hiệu quả cao, bền vững , nhất là mô hình nuôi sinh thái ; tăng cường đầu tư sản xuất con giống ; phát triển nguồn nhân lực gắn với đầu tư ứng dụng khoa học , công nghệ ; đầu tư đồng bộ hệ thống thuỷ lợi phục vụ đa mục tiêu ; phát triển ngành công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu thuyền ; phát triển dịch vụ hậu cần phục vụ khai thác biển và đẩy mạnh đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản theo hướng tinh chế , đa dạng hoá mặt hàng, nhất là các sản phẩm chín, ăn liền chế biến từ thuỷ sản , không ngừng nâng cao sức cạnh tranh , mở rộng thị trường xuất khẩu , bảo đảm đầu ra cho sản xuất phát triển bền vững và hiệu quả . Tỉnh xác định phát triển kinh tế thuỷ sản phải được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế khác và là nội dung quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn . Để tiếp tục phát triển có hiệu quả kinh tế thuỷ sản của tỉnh và của cả nước trong thời gian tới , Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau xin được đề xuất , kiến nghị với Đại hội một số vấn đề sau : 1. Đề nghị Trung ương Đảng, Chính phủ và các bộ , ngành Trung ương quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản , nhất là thủy lợi và giao

146

thông . Bên cạnh đó , tăng cường vốn đầu tư hỗ trợ các địa phương phát triển sản xuất giống chất lượng cao , sạch bệnh . Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học để sản xuất những loại giống mới cho năng suất cao . 2. Tiếp tục rà soát, sắp xếp lại đội tàu đánh bắt xa bờ , xử lý dứt điểm những tồn đọng trong thực hiện chương trình đầu tư đánh bắt xa bờ , đầu tư xây dựng hệ thống cảng cá , các khu neo đậu trú bão, vốn đầu tư khắc phục hậu quả cơn bão số 5 , song song với tiếp tục đầu tư để vực dậy nghề khai thác biển , phát triển tương xứng với tiềm năng , thế mạnh kinh tế biển của nước ta . 3. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư thông thoáng, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư đổi mới công nghệ chế biến thuỷ sản . Trong đó , cần ưu tiên đầu tư công nghệ hiện đại để sản xuất nhiều mặt hàng tinh chế có giá trị xuất khẩu cao ; cần tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản . Bên cạnh thị trường xuất khẩu , phải chú trọng khai thác thị trường nội địa , quan tâm phục vụ nhu cầu của nhân dân trong nước và du khách quốc tế. Trước diễn đàn trọng thể này, chúng tôi đại diện cho hơn 21.000 đảng viên của Đảng bộ tỉnh Cà Mau, xin bày tỏ tình cảm , lòng biết ơn và tin tưởng sâu sắc vào sự thành công của Đại hội . Đảng bộ và quân , dân Cà Mau phát huy hơn nữa truyền thống cách mạng, đoàn kết , nỗ lực phấn đấu khắc phục khó khăn , thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, đặc biệt là khai thác tốt tiềm năng, lợi thế về thuỷ sản , khâu đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh , góp phần cùng với cả nước quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng .

147

THỰC HIỆN TỐT CHƯƠNG TRÌNH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG , BẢO ĐẢM CHO NGƯỜI LÀM RỪNG CÓ CUỘC SỐNG ỔN ĐỊNH ( Tham luận của đồng chí Hoàng Bình Quân , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Tỉnh uỷ Tuyên Quang , đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang )

Rừng là tài nguyên quý giá của đất nước , có ý nghĩa rất to lớn về kinh tế quốc phòng, an ninh , phòng hộ , môi trường sinh thái ... Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII , VIII , IX của Đảng đã đề ra chủ trương khoanh nuôi , tái sinh , bảo vệ và phát triển rừng , nhằm tăng tốc độ phủ xanh đất trống , đồi núi trọc , bảo vệ hệ sinh thái bền vững ; thực hiện giao đất , giao rừng , tạo điều kiện cho miền núi phát huy thế mạnh về lâm nghiệp , ổn định và cải thiện đời sống của dân cư ở miền núi . Qua nghiên cứu Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng và từ thực tế của tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi tán thành và đánh giá cao chủ trương phát triển lâm nghiệp nêu trong Dự thảo văn kiện : " Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng ; đổi mới chính sách giao đất , giao rừng , bảo đảm cho người làm rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện. Nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu gỗ cho chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu " . Đây thực sự là chủ trương đổi mới của Đảng, xác định rõ hơn công tác bảo vệ và phát triển rừng có ý nghĩa to lớn về kinh tế và gắn với đời sống của người làm rừng .

148

Rừng và đất rừng của nước ta phân bổ chủ yếu ở các tỉnh miền núi , nơi sinh sống của gần 25 triệu người , phần lớn là đồng bào các dân tộc thiểu số , trình độ dân trí thấp , phương thức canh tác lạc hậu , kinh tế chậm phát triển và đời sống còn nhiều khó khăn . Những năm qua , Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng; ban hành hệ thống văn bản quy phạm pháp luật , nhiều chỉ thị , nghị quyết nhằm ngăn chặn tình trạng xâm hại , suy thoái rừng và đất rừng ; đã dành nguồn ngân sách đáng kể của Nhà nước để đầu tư Chương trình 327 , Dự án trồng mới 5 triệu hécta rừng và các chương trình đầu tư phát triển kinh tế - xã hội , xoá đói, giảm nghèo ở địa bàn khó khăn , đặc biệt khó khăn . Có thể khẳng định Chương trình bảo vệ và phát triển rừng đã đạt được kết quả quan trọng . Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , đến thời điểm hiện nay , cả nước có trên 12 triệu hécta rừng , trong đó có 10 triệu hécta rừng tự nhiên , còn lại là rừng trồng; độ che phủ rừng toàn quốc tăng từ 27,2 % năm 1990 lên 36,7 % năm 2004 . Trong nhiều năm qua , cùng với cả nước , tỉnh Tuyên Quang đã đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ , phát triển rừng và từng bước quan tâm cải thiện đời sống của người làm rừng . Với 448.000 ha đất lâm nghiệp , chiếm 76% diện tích tự nhiên , hiện nay diện tích có rừng của tỉnh là 332.600 ha (rừng trồng là 72.000 ha ) , đạt độ che phủ 63% , là một trong những tỉnh có độ che phủ rừng cao nhất cả nước . Đó là nỗ lực rất lớn của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang. Vốn rừng hiện có là điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong các lĩnh vực : công nghiệp chế biến đồ gỗ , sản xuất giấy, bột giấy, phát triển du lịch sinh thái , ngành nghề thủ công mỹ nghệ ... , đó là một trong những yếu tố nền tảng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện đời sống của người làm rừng trên địa bàn tỉnh .

Tuy nhiên , qua thực tế của các tỉnh miền núi nói chung và tỉnh

149

Tuyên Quang nói riêng, chúng tôi nhận thấy Chương trình bảo vệ và phát triển rừng còn không ít hạn chế , khó khăn : Rừng trồng chưa bảo đảm chất lượng ; chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu ; tính đa dạng sinh học của rừng tự nhiên tiếp tục suy giảm ; tăng trưởng của ngành lâm nghiệp thấp và chưa bền vững ; tiến độ giao đất , giao rừng chậm ; tác động của kinh tế lâm nghiệp đối với chương trình xoá đói , giảm nghèo còn hạn chế, thu nhập của người làm rừng thấp và chưa ổn định , đa số người dân miền núi , nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số ở gần rừng chưa thể sống được bằng nghề rừng . Trong khi đó , trên thực tế bảo đảm cuộc sống cho người làm rừng , người sống gần rừng là một trong những yếu tố rất quan trọng để bảo vệ rừng , ngăn chặn nạn phá rừng . Nguyên nhân của hạn chế , khó khăn nêu trên là do : - Nhận thức về lâm nghiệp của các ngành , các cấp chưa toàn diện , chủ yếu thiên về chức năng phòng hộ và môi trường sinh thái của rừng ; chưa nhận thức rõ lâm nghiệp là một ngành kinh tế kỹ thuật có tính đặc thù , bao gồm các hoạt động tạo rừng , bảo vệ rừng , khai thác , chế biến lâm sản và cung cấp các dịch vụ từ rừng ; do vậy chưa thực sự chú trọng đầu tư phát triển kinh tế lâm nghiệp . · - Công tác quy hoạch , nhất là quy hoạch phân 3 loại rừng còn bất hợp lý và chưa xác định được ranh giới ngoài thực địa , chưa kết hợp chặt chẽ giữa quy hoạch , chiến lược phát triển lâm nghiệp với các ngành kinh tế khác ; nguồn lực đầu tư mới chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách nhà nước , chưa khai thác , huy động được nguồn lực đầu tư của các thành phần kinh tế. Phương thức quản lý , bảo vệ rừng hiện nay chưa tạo được động lực thúc đẩy các thành phần kinh tế , nhất là hộ gia đình , cộng đồng dân cư và tư nhân tham gia quản lý , bảo vệ và đầu tư phát triển , kinh doanh rừng .

150

- Hệ thống chính sách lâm nghiệp thiếu đồng bộ , chưa phù hợp với chủ trương xã hội hoá nghề rừng và cơ chế thị trường , chậm điều chỉnh và chưa được tổ chức thực hiện tốt ; khoa học công nghệ trong lĩnh vực lâm nghiệp chưa giải quyết được những đòi hỏi cấp thiết từ sản xuất , kinh doanh nghề rừng . - Hệ thống tổ chức lâm nghiệp chậm đổi mới , năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội hoá lâm nghiệp và cơ chế thị trường hội nhập kinh tế quốc tế . Từ vai trò đa dạng và quan trọng của lâm nghiệp , để thực hiện có hiệu quả chương trình bảo vệ và phát triển rừng ; bảo đảm cho người làm rừng có cuộc sống ổn định và được cải thiện ; nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng và xuất khẩu ; qua thực tiễn công tác bảo vệ và phát triển rừng của tỉnh Tuyên Quang , chúng tôi xin đề xuất và làm rõ thêm một số nội dung sau :

1. Cần có những quan điểm đúng đắn và phù hợp về bảo vệ và phát triển rừng Một là, bảo vệ và phát triển rừng phải bảo đảm hài hoà cả hai mục đích là phòng hộ , môi trường với tăng trưởng kinh tế , góp phần tạo việc làm , nâng cao thu nhập để người làm rừng có cuộc sống ổn định , tiến tới có thể làm giàu từ nghề rừng . Hai là , cơ bản chuyển hướng phát triển lâm nghiệp hiện nay theo hướng xã hội hoá nghề rừng , trong đó dân làm và dân hưởng lợi là chính ; phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong quá trình bảo vệ và phát triển rừng . Nhà nước chỉ tập trung quản lý một số diện tích rừng đặc dụng , rừng phòng hộ xung yếu . Ba là , với chức năng phòng hộ , môi trường sinh thái , an ninh quốc phòng, việc bảo vệ và phát triển rừng là lợi ích quốc gia , góp phần phát triển đất nước bền vững , do vậy phải có đầu tư thoả

151

đáng từ nguồn ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho cộng đồng, hộ gia đình , cá nhân trực tiếp làm rừng .

2. Xác định một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác bảo vệ và phát triển rừng Một là, tăng cường tuyên truyền , giáo dục về vai trò, lợi ích của việc bảo vệ và phát triển rừng, về trách nhiệm của xã hội và công dân đối với sự nghiệp bảo vệ và phát triển rừng ; đổi mới phương pháp , nội dung tuyên truyền (ngắn gọn , dễ hiểu , dễ nhớ , dễ làm ) để nhân dân (trước hết là đồng bào dân tộc thiểu số ) làm nghề rừng , sống gần rừng nắm được chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước đối với việc bảo vệ và phát triển rừng . Từ đó khơi dậy tính cộng đồng , tinh thần tự giác , ý thức trách nhiệm bảo vệ và tích cực trồng rừng , thực sự coi việc giữ rừng , phát triển rừng có ý nghĩa thiết thực , gắn liền với cuộc sống của chính họ . Đồng thời với việc làm tốt công tác tuyên truyền , vận động, cần phát huy sức mạnh của toàn xã hội ngăn chặn tình trạng cháy rừng, xâm hại rừng và đất rừng ; xử lý nghiêm minh các hành vi khai thác rừng trái phép , nhất là các vụ có tổ chức , xâm hại rừng đầu nguồn , rừng phòng hộ xung yếu . Hai là, cần đẩy nhanh tiến độ rà soát , quy hoạch cơ cấu 3 loại rừng trên bản đồ và cắm mốc ngoài thực địa . Với nhận thức đầy đủ và phù hợp với thực tiễn là : rừng sản xuất cũng có chức năng phòng hộ, rừng phòng hộ cũng được khai thác , sử dụng hợp lý cho mục đích sản xuất , kinh doanh, chúng tôi đề nghị : ổn định diện tích rừng đặc dụng hiện có , giảm diện tích rừng phòng hộ hợp lý , tăng nhanh diện tích rừng sản xuất , phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế lâm nghiệp và bảo đảm nâng cao đời sống của người làm rừng ; khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung nhằm bảo đảm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng hiệu quả sử dụng đất .

152

Ba là, tiếp tục đổi mới chính sách giao đất , giao rừng gắn với định canh , định cư, căn bản giải quyết đất ở, đất sản xuất (kể cả nương cố định) ổn định , lâu dài cho đồng bào các dân tộc thiểu số sống gần rừng . Đồng thời cần xác định rõ quyền sử dụng đất rừng , quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư bảo vệ , trồng rừng , khai thác , chế biến lâm sản và sử dụng rừng vào các mục đích sản xuất , kinh doanh khác (kinh doanh cảnh quan , nghỉ dưỡng , du lịch sinh thái ... ) . Bảo đảm tất cả rừng và đất lâm nghiệp phải được giao , cho thuê đến những chủ rừng thuộc mọi thành phần kinh tế , trong đó tổ chức Nhà nước đóng vai trò chủ đạo , nhất là đối với rừng đặc dụng và rừng phòng hộ có quy mô lớn . Khẩn trương rà soát diện tích đất lâm nghiệp của các lâm trường đang quản lý , nếu sử dụng không có hiệu quả , không đúng mục đích hoặc bị lấn chiếm thì giao lại cho các hộ gia đình quản lý , sản xuất , kinh doanh . Bốn là, sớm đổi mới cơ chế , chính sách đầu tư bảo vệ và trồng rừng . Đổi mới mô hình quản lý rừng , chuyển hình thức khoán quản lý , bảo vệ rừng hiện tại (5 năm) sang hình thức khoán 50 năm và nâng mức khoán lên ít nhất 2 lần so với hiện nay ( từ 50.000 đồng/ha lên ít nhất 100.000 đồng /ha ) ; thay đổi phương thức đầu tư theo hướng đầu tư trực tiếp cho hộ gia đình , cá nhân trồng rừng kể cả rừng phòng hộ , Nhà nước hỗ trợ cây giống và một phần công lao động để người làm rừng tự tổ chức sản xuất; điều chỉnh hợp lý suất đầu tư trồng rừng ( mức đầu tư từ 4 đến 6 triệu đồng/ha như hiện nay là quá thấp ) . Các tổ chức tín dụng cho vay đủ vốn theo suất đầu tư trồng rừng sản xuất và thu nợ gốc , lãi theo chu kỳ kinh tế của cây rừng (hiện nay chỉ cho vay 70 % suất đầu tư và thu lãi tiền vay theo từng tháng trong khi chưa có sản phẩm thu hoạch từ rừng nên rất khó khăn cho người làm rừng ). Hỗ trợ kinh phí cho các hộ nghèo mua giống cây ăn quả , cây công nghiệp , con giống để

153

tổ chức sản xuất , kinh doanh theo phương thức nông, lâm kết hợp (lấy ngắn nuôi dài) vì chu kỳ kinh tế của cây rừng từ 8 đến 10 năm , đồng bào dân tộc thiểu số ở gần rừng đời sống còn rất khó khăn , chưa có thu nhập khác để nuôi sống gia đình khi rừng trồng chưa được thu hoạch . Xây dựng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng (huy động vốn từ các nguồn như :

ngân sách , thuế tài nguyên , các phí dịch vụ môi

trường , du lịch sinh thái , thu từ xử lý các vụ vi phạm Luật Bảo vệ và phát triển rừng , đóng góp của các tổ chức , cá nhân ... ) , có cơ chế quản lý , sử dụng hợp lý , ưu tiên đầu tư cho các hộ nghèo sống gần rừng và có tập quán sinh sống gắn với rừng . Năm là, cần có chính sách đặc thù để phát triển kinh tế nói chung và kinh tế lâm nghiệp nói riêng cho miền núi , đây là yếu tố rất quan trọng để cải thiện địa kinh tế của các tỉnh miền núi vốn địa hình chia cắt , dân cư phân tán , khả năng thu hút vốn đầu tư rất hạn chế. Tập trung đầu tư hạ tầng kỹ thuật , đặc biệt là giao thông , sớm ban hành các chính sách ưu đãi , thu hút đầu tư (về tín dụng , đất đai , hỗ trợ các loại phí ... ) phù hợp với điều kiện của miền núi để tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư , các doanh nghiệp . Mặt khác , đầu tư thoả đáng cho khu vực này còn có ý nghĩa rất lớn trong công tác xoá đói , giảm nghèo , thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào miền núi nói chung , đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng . Sáu là, đẩy mạnh nghiên cứu , ứng dụng khoa học công nghệ , tạo bước đột phá về giống , kỹ thuật canh tác , chế biến sản phẩm nhằm

nâng cao năng suất , chất lượng và hiệu quả sản xuất , kinh

doanh nghề rừng . Chú trọng công tác khuyến lâm , đặc biệt cho đồng bào dân tộc thiểu số và phụ nữ , để họ đủ năng lực thực hiện đa dạng hoá cây trồng , vật nuôi và gia đình có thu nhập ổn định . Tăng cường đào tạo , bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ lâm

154

nghiệp các cấp , nhất là ở các xã vùng sâu , vùng xa , vùng đặc biệt khó khăn để đáp ứng yêu cầu xã hội hoá lâm nghiệp . Trên đây là ý kiến đóng góp của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang với Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng . Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng , với chủ trương , chính sách bảo vệ và phát triển rừng sẽ được Đại hội quyết nghị , kinh tế lâm nghiệp của cả nước nói chung, của tỉnh Tuyên Quang nói riêng sẽ có những bước phát triển mới , đóng góp ngày càng cao vào tăng trưởng kinh tế , xoá đói , giảm nghèo , bảo đảm cho người làm rừng có cuộc sống ổn định và ngày càng được cải thiện , tiến tới có thể làm giàu từ nghề rừng .

155

CHUYỂN GIAO NHANH VÀ ỨNG DỤNG CÁC TIẾN BỘ KHOA HỌC , CÔNG NGHỆ NHẤT LÀ CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀO SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH THÁI BÌNH ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình )

Thái Bình là tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng , có truyền thống thâm canh lúa ; gần 80 % dân số trực tiếp sản xuất nông nghiệp ; bình quân diện tích canh tác trên đầu người thấp , chỉ có 550m . Những năm qua , Thái Bình rất tích cực chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất của tỉnh . Sự tăng trưởng kinh tế cũng như đời sống của đại bộ phận nhân dân vẫn phụ thuộc vào phát triển nông nghiệp . Vì vậy , cùng với việc lãnh đạo phát triển công nghiệp , dịch vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , ổn định chính trị , xã hội , Thái Bình đặc biệt quan tâm tới nông nghiệp , nông dân và nông thôn . Phát triển toàn diện nông nghiệp , chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá với chất lượng , hiệu quả ngày càng cao và giữ vững môi trường sinh thái được xác định là một trong những trọng tâm tạo bước đột phá tăng trưởng kinh tế của tỉnh . Để thực hiện nhiệm vụ đó , giải pháp quan trọng bậc nhất là chuyển giao , ứng dụng tiến bộ khoa học , công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp . Xuất phát từ đặc điểm , yêu cầu phát triển của địa phương,

156

khoa học , công nghệ ở Thái Bình tập trung chủ yếu vào việc chuyển giao , ứng dụng những tiến bộ khoa học , công nghệ vào các lĩnh vực của đời sống xã hội , đặc biệt trong nông nghiệp . Tỉnh đã tăng cường đầu tư cho hoạt động khoa học , công nghệ . Từ năm 2001 đến nay , ngân sách dành cho hoạt động khoa học , công nghệ bình quân mỗi năm tăng trên 10% , trong đó , kinh phí đầu tư cho chuyển giao , ứng dụng tiến bộ khoa học , công nghệ vào lĩnh vực nông nghiệp , nông thôn chiếm trên 65% tổng kinh phí đầu tư cho khoa học , công nghệ của tỉnh . Hàng năm , tỉnh đầu tư 5 tỷ đồng cho công tác khuyến nông, 20 tỷ đồng để hỗ trợ chuyển đổi các cây , con có giá trị kinh tế cao ; ngoài ra , các hộ nông dân đóng góp hàng tỷ đồng cho nhiệm vụ chuyển giao khoa học , công nghệ . Công tác khuyến nông, khuyến ngư cũng như công tác tuyên truyền về thành tựu khoa học , công nghệ được đẩy mạnh và được xã hội hoá . Hệ thống khuyến nông, khuyến ngư , các đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở , các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp , trung tâm học tập cộng đồng xã , phường , thị trấn , các phương tiện thông tin đại chúng duy trì nền nếp phổ biến khoa học - kỹ thuật , công nghệ , huấn luyện kỹ thuật, làm cho trình độ dân trí và khả năng ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ của nông dân Thái Bình nâng lên rõ rệt . Các phòng thí nghiệm , trung tâm , trạm , trại phục vụ cho việc nghiên cứu , ứng dụng được tăng cường . Đặc biệt Phòng thí nghiệm của Công ty Giống cây trồng Thái Bình đã đạt tiêu chuẩn quốc tế .

Để đạt được thành tựu trong sản xuất nông nghiệp của Thái Bình những năm qua , ngoài các yếu tố chủ quan và khách quan khác , thì việc tiếp thu , ứng dụng và chuyển giao nhanh các tiến bộ khoa học , công nghệ , nhất là công nghệ sinh học là yếu tố quan trọng hàng đầu . Bên cạnh đó , việc cải tạo giống cây trồng, vật nuôi cũng được đặc biệt quan tâm , coi đó là giải pháp trọng yếu để tạo ra bước đột

157

phá về năng suất , chất lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp . Tỉnh đã có mối quan hệ mật thiết với các viện nghiên cứu , các trường đại học trong nước và nước ngoài để hàng năm tiếp thu và khảo nghiệm hàng trăm dòng , giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao . Về giống cây trồng , đến nay , 100 % diện tích lúa trong tỉnh đều được cấy bằng các giống mới , lúa lai , lúa thuần có năng suất , chất lượng cao ; là tỉnh đầu tiên hoàn thành cấp I hoá giống lúa . Hai năm qua , Thái Bình đã có 3 giống lúa : Đê ưu 527 , TBR1 , CNR36 , được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận và cho phép đưa vào sản xuất đại trà . Các công nghệ sản xuất hạt giống lúa lai F1 , ngô lai F1 , công nghệ sản xuất lạc , đậu tương siêu nguyên chủng đã được ứng dụng và sản xuất thành công tại tỉnh . Đặc biệt , trong lĩnh vực công nghệ cao sản xuất các giống cây có giá trị gồm cây ăn quả , cây hoa , sản xuất giống khoai tây sạch bệnh bằng nuôi cấy mô tế bào và trồng cây trong hệ thống nhà lưới , nhà kính bước đầu đã được nghiên cứu ứng dụng thành công . Tỉnh đã đầu tư trên 3 tỷ đồng cho chương trình này và sẽ mở rộng trong những năm tới . Về giống vật nuôi ,

toàn tỉnh đã hoàn thành chương trình

"Móng Cái hoá " đàn lợn nái vào cuối những năm 90 của thế kỷ XX và hiện nay đang phát triển mạnh đàn lợn nái ngoại có tỷ lệ nạc cao với tổng đàn gần 7.000 con ; là tỉnh có tỷ lệ lợn ngoại cao ở miền Bắc . Lợn ngoại có tỷ lệ nạc cao , lợn sữa luôn đảm bảo chất lượng, giá thành hợp lý đang từng bước chiếm lĩnh thị trường nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu . Giống gia cầm , thuỷ cầm đã cơ bản được cải tạo bằng các giống mới có năng suất thịt , năng suất trứng cao . Thái Bình đã triển khai sản xuất giống cá chim trắng , nuôi và cho sinh sản cá rô phi hồng, cá rô phi đơn tính ; áp dụng công nghệ sinh sản nhân tạo để sản xuất giống cá bớp , cá tra và giống của biển ; nuôi khảo nghiệm cá song , cá lăng, cá hồng Mỹ , cá vược ... ;

158

chuyển giao một số công nghệ mới cho cơ sở và nông dân , như sinh sản nhân tạo , nuôi thâm canh tôm sú , công nghệ sản xuất giống cá chép V1 theo hình thức công nghiệp và kỹ thuật sản xuất giống tôm he Nhật Bản . Giống lúa , giống lợn của Thái Bình được nhiều địa phương biết đến và cung cấp rộng khắp cho nhiều tỉnh trong nước với sản lượng 4.000 tấn lúa giống , trên 1 triệu con lợn giống hàng năm . Giống là tiền đề , nhưng để giống phát huy hết tiềm năng của nó thì việc nghiên cứu , ứng dụng nhanh các kỹ thuật, công nghệ sản xuất với một quy trình tiên tiến , khép kín , hợp lý sẽ tạo bước đột phá về năng suất và xoá đi sự chênh lệch năng suất vốn tồn tại dai dẳng giữa các vùng . Thái Bình đã đẩy mạnh nghiên cứu đất và phân bón , lập bản đồ dinh dưỡng đất và hướng dẫn nông dân áp dụng các dạng phân bón tổng hợp , phức hợp ; đến nay đã đạt 70 80 % diện tích gieo trồng. Việc ứng dụng công nghệ vi sinh với các dạng phân bón có chứa tập đoàn sinh vật hữu ích đang được nghiên cứu thử nghiệm . Công nghệ gieo mạ non trên nền đất cứng đã trở thành phổ biến trên 80 % diện tích cấy lúa của tỉnh . Công nghệ che phủ màng pôlime được ứng dụng mang lại hiệu quả cao . Trong lĩnh vực bảo vệ cây trồng, các ứng dụng về phòng trừ tổng hợp IPM cho lúa và màu , sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm sú được ứng dụng rộng khắp . Trong lĩnh vực chăn nuôi , các công nghệ sử dụng chuồng kín có điều hoà ẩm độ , nhiệt độ , thức ăn công nghiệp , hầm biôga xử lý môi trường , công nghệ sử dụng vắcxin và các giải pháp an toàn sinh học ... đang được áp dụng rộng rãi ở hầu khắp các trang trại , gia trại chăn nuôi . Việc ứng dụng khoa học , công nghệ trong lĩnh vực sau thu hoạch được quan tâm . Thái Bình đã đầu tư trang bị hệ thống sấy vỉ cho hầu hết các trại , công ty sản xuất giống ; ứng dụng công nghệ bảo quản giống cây trồng , chủ yếu là khoai tây giống bằng hệ thống kho lạnh . Từ nguồn vốn hỗ trợ và vốn đối ứng, đã có 47 hợp

159

tác xã dịch vụ nông nghiệp xây dựng được 55 kho lạnh bảo quản giống và kinh doanh có lãi . Việc tiếp thu công nghệ tiên tiến trong sản xuất và chế biến hạt giống của Đan Mạch đạt hiệu quả ; hàng năm , Thái Bình đã sản xuất và tiêu thụ gần 10.000 tấn hạt giống lúa , màu chất lượng cao phục vụ tốt nhu cầu sản xuất trong tỉnh và cung cấp cho các tỉnh bạn . Kết quả ứng dụng và chuyển giao nhanh khoa học , công nghệ , nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp nêu trên đã góp phần quan trọng làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi , nâng cao hiệu quả sản xuất , tăng chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp và từng bước chuyển nông nghiệp của tỉnh sang sản xuất hàng hoá . Năng suất lúa đã đạt gần 18 tấn /ha /năm (vụ xuân 2005 đạt 7,1 tấn /ha ) . Năm năm qua , năng suất lúa tăng gần 10% , ngô tăng 47 % , đậu tương tăng 18 % , khoai tây tăng 70% , rau các loại tăng 26% ... Mặc dù đã chuyển gần 7.000 ha cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng cây , con khác có hiệu quả cao hơn , nhưng sản lượng lương thực của tỉnh vẫn duy trì trên 1 triệu tấn /năm . Giá trị sản xuất trên một hécta canh tác tăng nhanh , từ 30 triệu đồng năm 2000 lên trên 38 triệu đồng năm 2005 ; toàn tỉnh đã có 1.138 cánh đồng, với diện tích 11.270 ha , chiếm 12,3% tổng diện tích canh tác , đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng /ha /năm trở lên . Thu nhập thực tế của nông dân tăng đáng kể . Nông, lâm nghiệp , thủy sản duy trì được mức tăng trưởng khá , bình quân 4,04 %/ năm , trong đó , ngành chăn nuôi và thuỷ sản có mức tăng trưởng cao , trên 10 %/ năm , Tuy vậy , thời gian qua , hoạt động khoa học , công nghệ trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của Thái Bình vẫn còn một số hạn chế. Trình độ công nghệ sinh học còn lạc hậu ; công nghệ tiên tiến đưa vào tỉnh chưa nhiều . Hàm lượng khoa học , công nghệ trong nông sản hàng hoá còn thấp . Do ngân sách của tỉnh rất hạn hẹp , mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng việc đầu tư kinh phí cho hoạt

160

động khoa học , công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp . Những năm tới , việc chuyển mạnh nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá , nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất , sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường , bảo vệ môi trường sinh thái là yêu cầu cấp thiết , chẳng những góp phần quan trọng vào việc tăng trưởng chung của nền kinh tế , mà còn trực tiếp cải thiện , nâng cao đời sống nông dân và giữ vững ổn định tình hình nông thôn . Để thực hiện nhiệm vụ đó , tất yếu phải đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn , trong đó ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật , công nghệ , nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp có vị trí quan trọng. Đẩy mạnh triển khai thực hiện chương trình công nghệ sinh học , chủ yếu tập trung cho chương trình giống , sản xuất các giống cây , giống con mới có năng suất , chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, để tạo ra sản phẩm hàng hoá đủ sức cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế , theo chúng tôi , là nhiệm vụ , giải pháp quan trọng hàng đầu . Cùng với việc tăng cường đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu ở trung ương, cần đầu tư xây dựng các trung tâm chuyển giao , ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học ở các vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước ; đồng thời hỗ trợ các địa phương xây dựng , nâng cấp cơ sở vật chất , trang thiết bị các phòng thí nghiệm khoa học , công nghệ và xây dựng các mô hình nông nghiệp công nghệ cao ,

sản xuất sản phẩm sạch . Tăng cường

chuyển giao , ứng dụng tiến bộ khoa học , công nghệ vào việc chăm sóc , bảo vệ cây trồng , vật nuôi , bảo quản , chế biến nông sản , thực phẩm . Củng cố , kiện toàn , nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống khuyến nông, khuyến ngư ; đẩy mạnh công tác tuyên truyền , phổ biến tiến bộ khoa học , công nghệ cho nhân dân , nhất là thông qua các trung tâm học tập cộng đồng xã , phường, thị trấn và các phương tiện thông tin đại chúng . Tăng cường đào tạo nguồn nhân

161

lực khoa học , công nghệ và có chính sách khuyến khích , thu hút cán bộ khoa học , công nghệ về công tác tại cơ sở . Quan tâm đầu tư hơn nữa cho nông nghiệp , nông thôn , trước hết là đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng, hệ thống thuỷ lợi , điện , hỗ trợ các địa phương đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi và chuyển nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá . Việc chuyển giao và ứng dụng các tiến bộ khoa học , công nghệ , nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp vừa là vấn đề cấp bách , vừa có ý nghĩa cơ bản lâu dài , nhất là đối với những tỉnh mà nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn như Thái Bình . Vì vậy , cùng với sự phấn đấu , phát huy cao độ nội lực , chúng tôi rất mong nhận được sự quan tâm , giúp đỡ của các cơ quan trung ương và các địa phương góp phần đưa nông nghiệp phát triển toàn diện , hiệu quả và bền vững .

162

HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI VIỆT NAM ( Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Thương mại)

" Toàn cầu hoá là một xu thế lớn lôi cuốn được ngày càng nhiều nước tham gia" . Nhận thức được tiến trình có tính quốc tế này , ngay từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX , cùng với tiến trình đổi mới , Đảng ta đã chủ trương từng bước đưa nền kinh tế nước ta chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới .

1. Những mặt thuận và những mặt nghịch của toàn cầu hoá kinh tế Toàn cầu hoá có những mặt thuận . Nó giúp các nước tận dụng được lợi thế so sánh của mình . Tăng trưởng kinh tế , vì vậy , trở nên ổn định và bền vững hơn . Sức cạnh tranh của hàng hoá , dịch vụ và phúc lợi chung của toàn xã hội được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn . Quá trình này cũng tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia có hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên , bên cạnh mặt thuận , toàn cầu hoá kinh tế cũng có những mặt nghịch . Trước hết , toàn cầu hoá có khả năng dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước , đặc biệt là các nước đang phát triển vào các thành tố có độ ổn định kém của kinh tế toàn cầu như luồng vốn đầu tư và thị trường tài chính . Bên cạnh đó ,

163

toàn cầu hoá tuy có khả năng làm tổng sản phẩm xã hội tăng lên nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng hơn nữa khoảng cách phát triển giữa các nước giàu với nước nghèo cũng như giữa các vùng và các tầng lớp xã hội trong phạm vi quốc gia . Tự do hoá thương mại , nội dung đầu tiên và cốt lõi của toàn cầu hoá kinh tế , thường có ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận của sản xuất trong nước , gây ra những vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp . Đó là chưa kể đến những tác động khác khi ta mở cửa thị trường lên các mặt văn hoá , lối sống , v.v .. Mặc dù có mặt thuận và mặt nghịch nêu trên , tiến trình toàn cầu hoá kinh tế vẫn tiến về phía trước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu , bởi trên tổng thể , lợi ích của toàn cầu hoá kinh tế là không thể phủ nhận .

2. Về tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, nền kinh tế nước ta đã từng bước chủ động hội nhập thành công vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới . Về khu vực , từ năm 1995 , Việt Nam đã gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) . Ta đã thực hiện đầy đủ , đúng tiến độ các cam kết của mình . Cùng với ASEAN , ta đã ký thoả thuận thành lập các Khu vực mậu dịch tự do ASEAN . Trung Quốc , ASEAN · Ấn Độ , ASEAN - Hàn Quốc , ASEAN . Australia - New Zealand . Tiến trình giảm thuế theo AFTA nhìn chung diễn ra suôn sẻ , cho tới nay chưa thấy xuất hiện các cú " sốc " hoặc đột biến tiêu cực , giúp ta thêm tự tin bước vào các thoả thuận hợp tác kinh tế mới . Việt Nam là sáng lập viên của Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM ) từ năm 1996 và năm 1998 là thành viên của Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) . Sự tham gia của ta trong các tổ chức này ngày càng tích cực hơn , vị thế của ta cũng ngày càng được cải thiện , một số sáng kiến được đánh giá cao . Năm 2006 , ta lại càng có điều kiện phát huy hơn nữa

164

vị thế này bởi ta là nước chủ nhà của APEC 2006. Về đa phương, ta đang đẩy mạnh đàm phán gia nhập WTO . Cho tới nay , ta đã tổ chức được 12 phiên đàm phán đa phương và tiến hành rất nhiều phiên đàm phán song phương về mở cửa thị trường với 28 đối tác có yêu cầu , trong đó đã kết thúc được với 26 đối tác ; hiện chỉ còn phải đàm phán song phương với Hoa Kỳ và Mêxicô nhưng khoảng cách đã rất gần ; nếu các bên cùng cố gắng, khả năng gia nhập WTO trong năm nay là điều hoàn toàn có thể. Hội nhập kinh tế quốc tế mở ra thị trường rộng lớn để xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ; tạo điều kiện cho ta tiếp nhận vốn , công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mà các nhà đầu tư nước ngoài mang lại ; giúp ta nhận được các khoản vay ưu đãi từ các nước và các định chế tài chính quốc tế để có thể xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội , tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Đây là những nguồn lực to lớn góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm vừa qua . Lợi ích của hội nhập kinh tế quốc tế là rõ ràng . Tuy nhiên , bên cạnh những mặt thuận lợi ấy , quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt ra một số thách thức to lớn mà ta phải đối mặt: Một là, cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt hơn . Cạnh tranh không chỉ giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước trên thị trường nước ngoài để xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ mà cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước . Điều đó gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp , nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước , những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính và công nghệ yếu kém , mà tình trạng này lại khá phổ biến ở doanh nghiệp nước ta . Hai là, hội nhập kinh quốc tế với sự chuyển dịch tự do qua biên giới các yếu tố của quá trình tái sản xuất hàng hoá và dịch vụ tiêm ẩn nhiều rủi ro , trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội . Thách thức ở đây là phải đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm

165

tăng cường khả năng kiểm soát vĩ mô , nâng cao tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế , củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn . Tóm lại , phải tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra một cách suôn sẻ , với chi phí thấp . Ba là, hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trong thời gian qua , mặc dù đã có nhiều nỗ lực để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật có liên quan đến kinh tế và thương mại nhưng chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm . Trước hết là phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để thu hút đầu tư và phát huy mọi tiềm lực của tất cả các thành phần kinh tế . Đồng thời , không ngừng hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng khi hội nhập . Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã làm bộc lộ nhiều bất cập của nền hành chính quốc gia . Do một trong những nguyên tắc chủ đạo của WTO là minh bạch hoá , nên khi gia nhập WTO , nền hành chính quốc gia chắc chắn sẽ phải có sự thay đổi theo hướng công khai hơn , minh bạch hơn và hiệu quả hơn . Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi người dân , trong đó có doanh nghiệp và doanh nhân , lấy người dân , doanh nghiệp và doanh nhân làm trọng tâm phục vụ , khắc phục mọi biểu hiện trì trệ , thờ ơ và vô trách nhiệm . Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy thì chẳng những không tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại , mà cũng không chống được tham nhũng , lãng phí nguồn lực . Năm là, để bảo đảm tiến trình hội nhập đạt hiệu quả , bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương , cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước và đội ngũ doanh nhân đủ mạnh . Đây cũng là một thách thức to lớn đối với Việt Nam do phần đông cán bộ của ta còn

166

bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài . Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp , thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục . Sáu là , hội nhập kinh tế quốc tế dẫn đến sự hợp tác về an ninh và văn hoá . Đồng thời , việc mở cửa thị trường, mở rộng giao lưu trong điều kiện bùng nổ thông tin hiện nay , bên cạnh nhiều mặt tốt , những cái xấu cũng du nhập vào , đòi hỏi các cấp lãnh đạo , quản lý và mọi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị , giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc nhằm nâng cao sức đề kháng , chống lại sự tha hoá , biến chất , chống lại lối sống hưởng thụ , tự do tư sản ...

3. Định hướng và bước đi cho thời gian tới Để đối phó với những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tiến trình toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế , để có thể tận dụng cơ hội , vượt qua thách thức , cần tiếp tục đẩy mạnh triển khai các công việc sau đây : Cần nhận thức rằng , "đổi mới"

nói chung , cải cách kinh tế

theo đường lối đổi mới nói riêng là yêu cầu nội tại của chính bản thân đất nước ta . Hội nhập kinh tế quốc tế và tham gia WTO chính là đưa nền kinh tế đã và đang đổi mới , cải cách vào dòng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu , tạo điều kiện mới cho sự phát triển của đất nước . Hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia WTO có mặt thuận và mặt nghịch như đã nêu ở trên , nhưng đây là " xu thế lớn lôi cuốn được ngày càng nhiều nước tham gia " như Đại hội IX đã khẳng định . Xét theo hướng đó , ta sẽ có cơ sở để nhận định rõ ràng hơn về cái được và cái mất trong hội nhập kinh tế quốc tế, sẵn sàng mất những gì đáng mất hoặc chấp nhận mất trong ngắn hạn , để đổi lấy cái được trong dài hạn .

167

Trước những diễn biến nhanh chóng , dồn dập và phức tạp của toàn cầu hoá kinh tế , ta chỉ có thể giữ được thế chủ động nếu lực của ta mạnh và nền kinh tế của ta năng động và linh hoạt . Để làm được điều đó , phải tiếp tục đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế so sánh , có tính đến quy mô kinh tế và dung lượng thị trường . Cần cương quyết từ bỏ bao cấp , thực hiện đúng đắn quan điểm đặt ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư Khoá IX là "bảo hộ có chọn lọc , có điều kiện , có thời gian" ; chuyển những loại trợ cấp thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư (như hỗ trợ lãi suất tín dụng, miễn giảm thuế sử dụng đất , thuế thu nhập doanh nghiệp ... ) là các loại trợ cấp bị WTO cấm sang các hình thức hỗ trợ khác mà tổ chức này cho phép ; tạo dựng một môi trường cạnh tranh năng động ; đẩy mạnh cổ phần hoá , giảm dần để tiến tới xoá bỏ độc quyền doanh nghiệp , chủ động đặt các doanh nghiệp và trung tâm của tiến trình hội nhập . Sức ép đối với các doanh nghiệp sẽ rất lớn nhưng không còn cách nào khác bởi đó là hệ quả tất yếu của sự phát triển , là chặng đường mà mọi quốc gia đều phải đi qua trên con đường hướng tới phồn vinh . Trên phương diện quản lý , cần thay đổi phương thức quản lý kinh tế theo hướng giảm mạnh sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế , tăng cường sử dụng các công cụ điều tiết và kiểm soát mới , đặc biệt là các công cụ chính sách thận trọng . Tiếp tục cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật , đưa hệ thống pháp luật của ta ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế , đặc biệt là các quy định của WTO . Tăng cường tính ổn định và tính dễ dự đoán của hệ thống chính sách . Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng công khai , minh bạch , công bằng và hiệu quả . Tạo điều kiện , hỗ trợ cho các doanh nghiệp đẩy nhanh quá trình liên kết , tích tụ và tập trung vốn . Trên cơ sở đó , từng bước hình thành các tập đoàn kinh tế có đủ tiềm lực tài chính nhằm đổi

168

mới công nghệ sản xuất , nâng cao năng lực tổ chức thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu . Phát triển mạnh các lĩnh vực dịch vụ , đặc biệt là các dịch vụ phục vụ trực tiếp cho sản xuất và thương mại , như dịch vụ tài chính , dịch vụ logistic , dịch vụ viễn thông, v.v. , góp phần giảm chi phí cho doanh nghiệp . Cần hết sức coi trọng công tác phát triển nguồn nhân lực , đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ , công nhân . Coi đây là nguồn lực quan trọng nhất và đối với nước ta đây là yếu tố có khả năng cạnh tranh cao . Cải tổ cơ cấu tổ chức để quản lý tốt hơn tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế , bảo đảm cho tiến trình này được thực hiện một cách nhất quán , nhất là sau khi nước ta gia nhập WTO . Bên cạnh đó , cần tổ chức lại hệ thống thông tin kinh tế và nâng cao khả năng dự báo . Điều này rất quan trọng, nhất là trong thời đại ngày nay các tiến trình vận động với tốc độ rất nhanh . Theo yêu cầu đó , cần phải tổ chức lại hệ thống thông tin - dự báo ở cả khu vực quản lý nhà nước và khu vực doanh nghiệp . Hội nhập kinh tế quốc tế là thử thách với mọi nền kinh tế , kể cả các nền kinh tế có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam . Thử thách này càng khắc nghiệt hơn khi chúng ta là một nước đang phát triển , đồng thời là nền kinh tế chuyển đổi. Để vượt qua thử thách , cần nhận thức đầy đủ về những mặt thuận và mặt nghịch của toàn cầu hoá kinh tế , cũng như những cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại . Một điều rõ ràng là để hội nhập thành công , cần ra sức nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và của các doanh nghiệp . Việc đó chỉ có thể thực hiện được trong một môi trường kinh doanh thuận lợi , minh bạch và bình đẳng , được hỗ trợ bởi một hệ thống quản lý năng động và sáng tạo , một nền hành chính minh bạch và hiệu quả .

169

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN SỐ VÀ KẾ HOẠCH HOÁ GIA ĐÌNH , GÓP PHẦN ĐƯA ĐẤT NƯỚC NHANH CHÓNG RA KHỎI TÌNH TRẠNG KÉM PHÁT TRIỂN ( Tham luận của đồng chí Lê Thị Thu , Bộ trưởng , Chủ nhiệm Uỷ ban Dân số , gia đình và trẻ em, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Khoa giáo Trung ương )

Đối với các nước đang phát triển như nước ta , việc khống chế . được tốc độ gia tăng dân số nhanh , kiểm soát chặt chẽ quy mô dân số cho phù hợp với tốc độ tăng trưởng , phát triển kinh tế - xã hội là một vấn đề bức xúc . Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đối với phát triển kinh tế - xã hội , để giải quyết căn bản vấn đề quy mô dân số , năm 1993 , Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ra Nghị quyết về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình . Sau khi có nghị quyết , sự quan tâm của lãnh đạo Đảng và chính quyền các cấp được tăng cường, kinh phí đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình được tăng nhanh , cơ chế quản lý được đổi mới , sự tham gia ngày càng tích cực và có hiệu quả của các ngành , đoàn thể , sự nỗ lực vượt bậc của hệ thống làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình từ Trung ương đến địa phương và sự hưởng ứng của nhân dân , công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đã có chuyển biến mạnh cả về nhận thức , tổ chức thực hiện và đã đạt được kết quả rất tốt .

170

Số liệu của 2 cuộc tổng điều tra dân số ngày 01-4-1989 và 01-41999 cho thấy : trong thời gian 10 năm giữa 2 cuộc tổng điều tra , tỷ lệ sinh giảm rất nhanh, từ 30,1 % xuống 19,9%, giảm trung bình khoảng 1 %% mỗi năm ; số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm từ 3,8 con xuống 2,3 con . Tương ứng tỷ lệ phát triển dân số đã giảm từ 2,3% xuống 1,36% . Do vậy , vào năm 2000, dân số Việt Nam là 77,6 triệu người , giảm sinh được 5 triệu người so với kế hoạch đề ra trong Chiến lược dân số và kế hoạch hoá gia đình đến năm 2000 (82,6 triệu người). Kết quả này đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung của phát triển kinh tế - xã hội , xoá đói , giảm nghèo , nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân , được Liên hợp quốc tặng giải thưởng về dân số . Bước vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm ( 20012005) , thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng khoá IX , công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình tiếp tục được triển khai . Tuy nhiên , do chủ quan thoả mãn với những kết quả bước đầu đã đạt được , dẫn đến lơi lỏng lãnh đạo , chỉ đạo và một loạt các yếu tố khác như : thay đổi cơ chế quản lý không phù hợp với đặc thù công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình ; tổ chức bộ máy thiếu ổn định và quá tải ; chế độ , chính sách cho cán bộ làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở chưa thoả đáng ; chỉ đạo , điều hành thiếu quyết liệt ; nội dung Pháp lệnh dân số chưa chặt chẽ , v.v. , nên kết quả thực hiện công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình giảm sút rõ rệt . Do vậy , năm 2003 , tỷ lệ phát triển dân số tăng trở lại ( năm 2002 là 1,32 % , năm 2003 là 1,4 % ) . Số cán bộ , đảng viên sinh con thứ ba trở lên tăng mạnh và lan rộng ở nhiều địa phương gây ảnh hưởng xấu và làm cho việc tuyên truyền , vận động nhân dân thực hiện kế hoạch hoá gia đình gặp nhiều khó khăn . Trước tình hình đó , nhằm khắc phục tình trạng tỷ lệ phát triển dân số tăng trở lại , chặn đứng đà giảm sút của công tác này , Bộ Chính trị đã ban hành

171

Nghị quyết số 47 - NQ/TW về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình . Sau khi có Nghị quyết 47 , việc triển khai nghị quyết được thực hiện hết sức nhanh chóng và có hiệu quả . Sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp được tăng cường , cơ quan chỉ đạo , điều hành đã tiến hành các biện pháp quyết liệt bằng việc triển khai trên diện rộng các chiến dịch truyền thông , vận động kết hợp với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản , kế hoạch hoá gia đình ở vùng đông dân có mức sinh , tỷ lệ sinh con thứ ba cao . Do vậy , tính chung cho cả giai đoạn 5 năm (2001-2005) , tỷ lệ sinh tiếp tục giảm với mức trung bình 0,12 %

mỗi năm , số con

trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ giảm xuống 2,11 con , tỷ lệ phát triển dân số giảm xuống còn 1,33 % vào năm 2005 . Kinh nghiệm quan trọng được rút ra trong thời gian có biến động trong công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình vừa qua là trong điều kiện kinh tế - xã hội kém phát triển lại chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng nho giáo về sinh đẻ và coi con trai hơn con gái như ở nước ta , để triển khai có kết quả công tác này, phải thường xuyên quan tâm , phấn đấu liên tục , không được chủ quan , thoả mãn . Công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình tuy đã đạt được thành tựu , nhưng còn hết sức khó khăn . Chỉ cần lơi lỏng hoặc có các quyết định thiếu cân nhắc kỹ thì mức sinh không những không tiếp tục giảm mà còn có thể tăng trở lại . Nước láng giềng của ta là Trung Quốc cũng đã trải qua kinh nghiệm này . Chỉ sau vài năm triển khai quyết liệt chính sách 1 con , năm 1980 số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ở Trung Quốc đã giảm xuống còn 2,3 con . Nhưng sau đó do lơi lỏng, thiếu quyết liệt trong thực hiện , mức sinh đã tăng trở lại và 10 năm sau , vào năm 1990 mới đạt lại mức 2,3 con . Với những kết quả đã đạt được và đặt trong bối cảnh thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội (2006-2010) của đất nước , công tác dân số

172

và kế hoạch hoá gia đình trong 5 năm tới phải tiếp tục được đẩy mạnh , phấn đấu thực hiện mục tiêu : giảm tỷ lệ sinh trung bình 0,25 % mỗi năm để đến năm 2010 tỷ lệ phát triển dân số là 1,14 %, số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ là 2 , dân số dưới 89 triệu người , tiến tới ổn định quy mô dân số ở mức 115 - 120 triệu người vào giữa thế kỷ XXI. Ngay sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình được ban hành , Liên hợp quốc đã dự báo dân số Việt Nam đến năm 2035 theo 3 phương án : Phương án 1 : 116,5 triệu người nếu đạt mức sinh thay thế vào năm 2005 ; Phương án 2 : 131,2 triệu người nếu đạt mức sinh thay thế vào năm 2015 ; Phương án 3 : 145,7 triệu người nếu đạt mức sinh thay thế vào năm 2025 . Với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân trong công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình , hơn 10 năm qua , chuỗi số liệu về kết quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình cho thấy chúng ta đang đi theo phương án 1 và nếu trong 5 năm tới chúng ta tiếp tục nỗ lực phấn đấu , đạt được mục tiêu nêu trên , chúng ta sẽ vẫn duy trì được kết quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình theo phương án 1 , tạo tiền đề phấn đấu tiếp tục trong những năm sau để giảm được 15 triệu người so với phương án 2 và 29 triệu người so với phương án 3 vào năm 2035. Chúng ta đều nhận thức rất rõ việc tránh được nhiều triệu người khi ổn định quy mô dân số đối với một nước đất hẹp , người đông, tài nguyên thiên nhiên không nhiều như nước ta sẽ đỡ khó khăn cho đất nước trên hành trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá , đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển . Để đạt được mục tiêu trên , các cấp uỷ đảng, chính quyền cần

173

triển khai đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp về lãnh đạo , chỉ đạo ; tăng cường công tác truyền thông, vận động và giáo dục ; tổ chức tốt các chiến dịch truyền thông lồng ghép với cung cấp dịch vụ kế hoạch hoá gia đình ; củng cố , kiện toàn tổ chức bộ máy , cán bộ và nâng cao hiệu lực quản lý ; tăng đầu tư nguồn lực và thực hiện chính sách khuyến khích mạnh để thúc đẩy phong trào nhân dân tự nguyện thực hiện kế hoạch hoá gia đình ; mở rộng và nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình như Nghị quyết số 47 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã xác định . Mặc dù đã đạt được những kết quả rất đáng ghi nhận trong thời gian qua , nhưng sức ép về quy mô dân số đối với phát triển bền vững ở nước ta vẫn còn rất lớn . Quy mô dân số đã gần 84 triệu người, mật độ dân số cao gấp đôi mật độ dân số của Trung Quốc . Số dân tăng lên hàng năm đã giảm nhiều song vẫn ở mức 1,1 triệu người , bằng dân số của một tỉnh trung bình . Do vậy , giải quyết bằng được bài toán về quy mô dân số ở nước ta vẫn tiếp tục là một yêu cầu bức xúc . Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay , để giải quyết thành công vấn đề quy mô dân số thì sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp , sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên , cán bộ , công chức nhà nước là một yếu tố hết sức quan trọng . Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy , ở nơi nào lãnh đạo Đảng và chính quyền thực sự quan tâm , đưa công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình thành một nội dung quan trọng trong chương trình hoạt động của các cấp uỷ đảng và chính quyền , xem đây là một tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của địa phương , đơn vị ; các đồng chí lãnh đạo chủ chốt thường xuyên kiểm tra , giám sát , cán bộ , đảng viên gương mẫu thực hiện và huy động các lực lượng xã hội tham gia thì ở nơi đó công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình đạt được kết quả tốt và ngược lại . Kinh nghiệm triển

174

khai Nghị quyết 47 cũng khẳng định điều này và chỉ trong

một thời gian ngắn, nhờ lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, chúng ta đã ổn định được tình hình , đưa công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình trở lại quỹ đạo tích cực . Văn kiện Đại hội X của Đảng đề ra nội dung đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đây là mục tiêu phấn đấu cao , xét trong mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và dân số , bởi dân số luôn là mẫu số của mọi bài toán về phát triển kinh tế - xã hội . Cùng với việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế , giải quyết tốt các vấn đề xã hội , cần đẩy mạnh công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình , tiếp tục đạt kết quả tốt như phương án 1 nêu trên , tránh tái diễn tình trạng gia tăng tốc độ phát triển dân số và hạn chế các thành quả phát triển kinh tế xã hội. Trong công tác dân số , bên cạnh việc giải quyết tốt vấn đề quy mô dân số , việc nâng cao chất lượng dân số về thể chất và tinh thần ; duy trì cơ cấu dân số hợp lý ; phân bố dân cư phù hợp với phát triển kinh tế - xã hội ; cải tiến phương thức quản lý dân cư phân tán , lạc hậu ; xây dựng hệ thống đăng ký và quản lý dân cư hiện đại phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cũng cần được triển khai thực hiện có kết quả . Để kết thúc phần phát biểu , tôi xin đưa ra một bảng so sánh tóm lược về việc giải quyết mối quan hệ giữa dân số và phát triển kinh tế của ta và hai nước có điểm xuất phát , điều kiện tương tự là Thái Lan và Hàn Quốc . Vào năm 1960 , điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam với Thái Lan và Hàn Quốc là tương đương nhau , thậm chí Việt Nam có phần khá hơn . Lúc đó , dân số nước ta là 30 triệu người, Thái Lan 26 triệu và Hàn Quốc 24 triệu . Chúng ta bắt đầu làm công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình năm 1961 , Hàn Quốc tiến hành chậm hơn ta 1 năm là vào năm 1962 , còn Thái Lan mãi đến năm 1970 mới triển khai công tác này . Nhờ làm thành

175

công công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình , đến năm 1983 , Hàn Quốc đã đạt mức sinh thay thế (mất 21 năm) , năm 1990 Thái Lan đạt mức sinh thay thế (mất 20 năm) , còn Việt Nam thì cho đến năm 2005 mới đạt chỉ số này (mất 44 năm ) . Hiện nay , dân số Thái Lan là 63,8 triệu người và dự kiến sẽ ổn định quy mô dân số ở mức 72 triệu người; dân số Hàn Quốc là 48,2 triệu người và dự kiến sẽ ổn định quy mô dân số ở mức 50 triệu người ; còn Việt Nam , hiện đã có gần 84 triệu người và nếu làm quyết liệt, đạt được phương án tích cực , dân số nước ta sẽ ổn định ở mức 115 - 120 triệu người . Như vậy từ lúc bắt đầu dân số Việt Nam chỉ hơn Thái Lan 4 triệu người, hơn Hàn Quốc 6 triệu người thì hiện nay đã hơn Thái Lan 19 triệu người , hơn Hàn Quốc 33,9 triệu người và sẽ hơn Thái Lan 45 triệu người và hơn Hàn Quốc 70 triệu người khi ổn định quy mô dân số . Thu nhập quốc dân bình quân đầu người của Hàn Quốc đã trên 19.000 USD , của Thái Lan là trên 3.000 USD , còn của Việt Nam là hơn 600 USD . So sánh trên cho thấy việc giải quyết thành công vấn đề quy mô dân số , dù chỉ là một yếu tố trong nhiều yếu tố , có ảnh hưởng đến mức nào đối với phát triển kinh tế - xã hội . Ngoại trừ các nguyên nhân khách quan và chủ quan , so sánh trên cũng cho thấy khoảng cách tụt hậu giữa chúng ta với các nước không chỉ về phát triển kinh tế - xã hội mà cả về công tác dân số và để không tụt hậu xa hơn nữa , nhanh chóng ra khỏi tình trạng kém phát triển , chúng ta phải phấn đấu nỗ lực không chỉ trong phát triển kinh tế - xã hội mà cả trong công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình .

176

QUẢNG NGÃI QUYẾT TÂM TẠO BƯỚC PHÁT TRIỂN NHẢY VỌT VỀ CÔNG NGHIỆP , ĐƯA TỈNH RA KHỎI TÌNH TRẠNG KÉM PHÁT TRIỂN , CÙNG VỚI CẢ NƯỚC THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ , HIỆN ĐẠI HOÁ ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi)

Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng đã xác định rõ những nội dung cơ bản của tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước gồm : công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển công nghiệp , xây dựng kết cấu hạ tầng , phát triển dịch vụ, du lịch, phát triển kinh tế vùng ... Trong xây dựng chiến lược phát triển toàn diện, Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi đã chọn phát triển công nghiệp là một nội dung chủ yếu để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá trên địa bàn tỉnh . Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo , kinh tế chủ yếu là nông nghiệp , 2/3 diện tích là rừng , núi , không có tiềm năng lớn về tài nguyên , khoáng sản, xa các trung tâm kinh tế lớn , thị trường còn nhỏ bé chọn phát triển công nghiệp để phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá là điều không đơn giản với Quảng Ngãi . Sự thiếu hiểu biết , tâm lý e ngại ... đã làm chậm rất nhiều nội dung cần triển khai thực hiện , nhưng khi thực hiện thì lại nảy sinh tâm lý chờ đợi , ỷ lại vào việc đầu tư của Trung ương với những dự án

177

lớn trên địa bàn tỉnh ; thiếu sự chủ động trong việc đề ra kế hoạch huy động các nguồn lực , trong đó có nguồn lực từ chính nền kinh tế của tỉnh , chính vì vậy , khi các dự án của Trung ương gặp khó khăn , chậm tiến độ thì việc phát triển kinh tế của tỉnh cũng gặp khó khăn , bế tắc . Vượt qua những thách thức , khó khăn ấy , Đảng bộ Quảng Ngãi quyết tâm thay đổi nhận thức , nếp nghĩ, cách làm , tiếp thu các quan điểm cơ bản của Đảng về phát triển công nghiệp , trên cơ sở thực tiễn của địa phương . Nhiệm kỳ qua , Tỉnh uỷ Quảng Ngãi đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp đến năm 2010. Nghị quyết xác định mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp trên địa bàn theo 3 mô hình . Một là , phát triển các ngành , nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp , ngành , nghề truyền thống sử dụng nguyên liệu tại chỗ , sử dụng nhiều lao động nhàn rỗi ở nông thôn , như chế biến thực phẩm , sản xuất mây tre đan , sửa chữa tàu thuyền , chế biến thức ăn gia súc ... có quy mô sản xuất nhỏ . Mô hình này được đầu tư ở các cụm công nghiệp huyện , thành phố và làng nghề ở nông thôn . Hai là , phát triển công nghiệp chế biến , xuất khẩu như: chế biến nông sản , sản xuất đồ gỗ , thủy sản, may mặc , da - giày ... có quy mô sản xuất vừa . Mô hình này được đầu tư ở các khu công nghiệp của tỉnh . Ba là , kêu gọi đầu tư xây dựng có chọn lọc các cơ sở công nghiệp nặng, sản xuất tư liệu sản xuất có quy mô vừa và lớn , công nghệ hiện đại như công nghiệp lọc dầu , hoá dầu , luyện , cán , cơ khí , đóng tàu ... Mô hình này tập trung ở Khu kinh tế Dung Quất . Thực hiện mục tiêu và định hướng trên , đến nay , bức tranh về phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã hình thành rõ nét và đầy triển vọng , nhất là từ khi Chính phủ quyết định thành lập Khu kinh tế Dung Quất , Bộ Chính trị có Nghị quyết 39 -NQ /TW về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh

178

vùng bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2010 , trong đó xác định Quảng Ngãi là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung . Năm năm qua , kinh tế của tỉnh tăng trưởng với nhịp độ khá cao , Tổng sản phẩm (GDP) tăng bình quân hàng năm 10,3 % . Các khu vực , ngành , vùng kinh tế đều phát triển . Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp từ 21,58% lên 30 % ; giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 15 %/năm ; kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật có bước phát triển mạnh mẽ ... Với nhiều cơ chế, chính sách thu hút , khuyến khích , hỗ trợ ưu đãi đầu tư sản xuất , kinh doanh vào các ngành công nghiệp ; đầu tư vào các cụm công nghiệp , khu công nghiệp và khu kinh tế , đến nay , 11 cụm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở các huyện , thành phố đã được quy hoạch , xây dựng và bước đầu thu hút được một số doanh nghiệp đến đầu tư ; 3 khu công nghiệp của tỉnh đã được hình thành , trong đó , 2 khu công nghiệp đã cơ bản lấp đầy giai đoạn 1 với 77 dự án đăng ký đầu tư với tổng số vốn đạt hơn 1.600 tỷ đồng; 48 dự án đã đi vào hoạt động . Đặc biệt , tại Khu kinh tế Dung Quất , kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội , nhất là hệ thống giao thông , cảng biển nước sâu , các phân khu công nghiệp , trường đào tạo nghề , bưu điện , bệnh viện ... đã được xây dựng đồng bộ hoàn thành giai đoạn 1 , tiếp tục xây dựng giai đoạn 2 , tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các công trình đã có với các công trình đang chuẩn bị triển

khai như Sân bay quốc tế Chu Lai , đường cao tốc Đà Nẵng Quảng Ngãi , đường nối Khu kinh tế Dung Quất với các tỉnh Tây Nguyên ; đường Hồ Chí Minh , đường ven biển Dung Quất - Sa Huỳnh , đô thị mới Vạn Tường ... Cùng với chính sách ưu đãi vượt trội đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng tại Khu kinh tế Dung Quất , sự nỗ lực , cố gắng của các cấp uỷ đảng , chính quyền trong việc thu hút đầu tư , tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư và sự hỗ trợ đắc lực của các bộ , ngành Trung ương đã bước đầu tạo được

179

niềm tin , tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tư đã , đang và sẽ đầu tư vào Khu kinh tế Dung Quất . Tính đến cuối năm 2005 , Khu kinh tế Dung Quất đã có 94 dự án đăng ký đầu tư với tổng số vốn đạt hơn 70 nghìn tỷ đồng (tương đương 4,5 tỷ USD) , trong đó có 30 dự án đã đi vào hoạt động . Đặc biệt , hiện nay tỉnh cùng với các bộ , ngành Trung ương đang xem xét trình Thủ tướng Chính phủ cấp phép cho một số dự án đầu tư nước ngoài có quy mô lớn thuộc lĩnh vực công nghiệp nặng đầu tư vào Khu kinh tế Dung Quất . Kết quả đạt được trên lĩnh vực phát triển công nghiệp của tỉnh trong thời gian qua tuy còn nhỏ bé , nhưng có ý nghĩa rất quan trọng cả về kinh tế , xã hội và chính trị ; là tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế của tỉnh trong thời gian tới ; góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối đổi mới của Đảng ; tạo không khí phấn khởi , đoàn kết và sự đồng thuận trong toàn xã hội . Tuy vậy , Quảng Ngãi vẫn còn là một tỉnh nghèo , kém phát triển ; nhiệm vụ đặt ra trước mắt và lâu dài là vô cùng to lớn , nặng nề , đòi hỏi sự nỗ lực , chủ động vươn lên , đổi mới không ngừng , nhất là đổi mới tư duy và quyết liệt trong hành động thực tiễn . Tiếp thu tư tưởng trong Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII , nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã xác định phương hướng , mục tiêu tổng quát là : "Huy động mọi nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá, đưa tỉnh ra khỏi tình trạng kém phát triển , trở thành tỉnh có kinh tế - xã hội phát triển khá đạt mức trung bình so với cả nước , trong đó , công nghiệp có bước phát triển nhảy vọt... Cùng với Trung ương đẩy mạnh xây dựng và phát triển Khu kinh tế Dung Quất, trọng tâm là hoàn thành đúng tiến độ xây dựng Nhà máy lọc dầu " . Năm năm tới , Quảng Ngãi phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 17 % đến 18% ; GDP bình quân đầu người năm 2010 theo giá hiện hành đạt 950 - 1.000 USD , bằng

180

mức bình quân chung của cả nước . Thực hiện mục tiêu trên , nhiệm vụ phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh tế được coi là khâu đột phá của tỉnh , nhằm bảo đảm đưa giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 32-33 %/năm , tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh từ 30 % năm 2005 lên 62-63% vào năm 2010 . Có thể nói , phương hướng, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu , nhiệm vụ , giải pháp chủ yếu của Quảng Ngãi được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII , nhiệm kỳ 20052010 đã thể hiện sự quán triệt, cụ thể hóa và sự thống nhất cao đối với nội dung của Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX trình Đại hội X của Đảng . Tại diễn đàn quan trọng này , thay mặt Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Ngãi , một lần nữa , tôi xin biểu thị sự đồng tình và thống nhất cao với nội dung Dự thảo Báo cáo chính trị trình bày trước Đại hội. Qua thực tiễn triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong không gian kinh tế của khu vực miền Trung và mối liên kết giữa vùng kinh tế trọng điểm miền Trung với các vùng kinh tế trọng điểm khác trong cả nước , chúng tôi xin đề xuất và kiến nghị một số vấn đề sau đây : Thứ nhất, Đảng ta đã chọn con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá để phát triển đất nước và xác định đến năm 2020 , nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Trên tinh thần đó, nhiều tỉnh đều đặt ra mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp , nhiều huyện , thậm chí xã cũng nêu mục tiêu trở thành . huyện , xã công nghiệp . Thế nhưng , tiêu chí nước công nghiệp , tỉnh công nghiệp là thế nào ? Và xét về mục tiêu để cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 , thì hiện nay chúng ta đang ở đâu? Vấn đề này cần được nghiên cứu , luận giải cụ thể hơn để có cơ sở cho các ngành và các địa phương xây dựng kế hoạch và lộ trình phát triển của mình .

181

Thứ hai, Báo cáo chính trị và Báo cáo phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 đã xác định : Khẩn trương thu hút vốn trong và ngoài nước đầu tư thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác dầu khí , lọc dầu và hoá dầu, luyện kim , cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng ... giảm bớt sự phụ thuộc bên ngoài ; " Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam thành những trung tâm công nghiệp lớn , có công nghệ cao

trung tâm dịch vụ vận tải

và giao thương quốc tế" ; " Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung ; cần chú trọng ... khai thác cảng biển , vận tải biển , công nghiệp chế biến xuất khẩu , lọc hoá dầu… , phát triển có hiệu quả các khu kinh tế, khu công nghiệp gắn với các cảng biển , các đô thị mới và các tuyến hành lang đông - tây . Do vậy , trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng, cần khẩn trương cụ thể hoá Nghị quyết thành cơ chế , chính sách phù hợp với quan điểm về phát triển công nghiệp , xây dựng và phát triển vùng. Thứ ba , trong xây dựng cơ chế , chính sách , phải tính đến đặc thù của từng vùng , miền , trong đó cần có sự ưu tiên nhất định đến khu vực miền Trung - nơi được xác định là có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng đối với cả nước ; nơi có nhiều tiềm năng để phát triển , nhưng hiện tại khu vực này còn rất nhiều khó khăn , yếu kém trên tất cả các mặt ; điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt ; đời sống vật chất , văn hoá , tinh thần của nhân dân còn ở mức thấp ; tỷ lệ đói nghèo còn cao ; nguồn lao động tuy đông nhưng chất lượng còn rất thấp ; hạ tầng kinh tế - kỹ thuật còn hạn chế; lợi thế so sánh , khả năng cạnh tranh còn thấp so với mặt bằng chung cả nước ; một số dự án lớn có tính đột phá triển khai quá chậm và kéo dài ... Do vậy , nhiệm vụ đưa miền Trung phát triển với tốc độ nhanh hơn

so với tốc độ bình quân của cả nước , nhằm tạo ra sự phát

triển đồng đều giữa các vùng , cần phải được tập trung chỉ đạo và

182

thực hiện quyết liệt , đồng bộ ở tất cả các cấp , các ngành và trên tất cả các lĩnh vực ; phải xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù cho miền Trung ; cần chú ý có những " điểm nhấn " trong đầu tư nhằm tạo ra được những " cú huých " đủ mạnh , làm động lực thực sự để phát triển mạnh mẽ vùng kinh tế trọng điểm miền Trung trong những năm tới . Thứ tư , hiện nay ở nước ta có nhiều mô hình phát triển kinh tế như : khu kinh tế mở , khu kinh tế, khu công nghiệp , khu chế xuất ... Do vậy , Trung ương cần sớm sơ kết việc triển khai thực hiện các mô hình đó để làm rõ hơn về cơ sở lý luận , cơ chế quản lý và có những giải pháp đẩy nhanh tốc độ , nâng cao chất lượng phát triển các mô hình kinh tế này trong giai đoạn tiếp theo . Đặc biệt , cần xem xét , đánh giá , xác định chức năng , nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước và hoạt động của tổ chức đảng đối với từng mô hình . Hoà cùng với không khí phấn khởi , tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trước sự kiện chính trị trọng đại của đất nước , Đảng bộ , nhân dân Quảng Ngãi đã và đang ra sức thi đua , tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức với tinh thần cách mạng tiến công, lập thành tích cao nhất chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng ; quyết giữ vững truyền thống cách mạng, đoàn kết xung quanh Trung ương Đảng, Bộ Chính trị , Ban Bí thư, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng .

183

BẢO VỆ VÀ CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC ( Tham luận của đồng chí Phạm Khôi Nguyên , Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Kinh tế Trung ương )

Khẩu hiệu chung của Đại hội lần này : " Đoàn kết , đổi mới , trí tuệ và phát triển bền vững "

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Khoảng hai thập kỷ gần đây , phát triển bền vững được đặt ra như là một yêu cầu không thể thiếu của quá trình phát triển trên toàn thế giới cũng như ở mỗi quốc gia . Tiếp sau Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hợp quốc tại Rio De Janeiro (Braxin ) năm 1992 , Hội nghị Thượng đỉnh thế giới năm 2002 tại Johannesburg (Nam Phi) đã nhất trí thông qua Kế hoạch thực hiện phát triển bền vững , xác nhận xu thế tất yếu mà cộng đồng quốc tế cần hướng tới . Thế giới ngày nay tiềm ẩn nhiều nguy cơ không bền vững . Sự phát triển bằng bất cứ giá nào , bất công xã hội tràn lan , tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng , tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức , môi trường bị huỷ hoại , v.v. , đang là những vấn đề bức xúc có tính toàn cầu . Khoảng cách giữa các nước phát triển và kém phát triển ngày càng rộng . Các nước phát triển đang khai thác nhân công và tài nguyên của các nước kém phát triển với giá rẻ mạt , đồng thời gây ra ô nhiễm môi trường tại các nước kém phát triển dưới nhiều hình thức , trong đó có việc bỏ qua hoặc xem nhẹ đầu tư cho bảo vệ môi trường, để ăn lãi về môi trường thông qua

184

các dự án đầu tư . Nhiều nước phát triển " nóng " đang phải trả giá đắt về môi trường . Hàng loạt các vấn đề môi trường toàn cầu đã và đang ngày càng trở nên bức xúc, như việc trái đất đang nóng lên không bình thường, làm cho thiên tai tăng đột biến và mực nước biển dâng cao ; lỗ thủng tầng ôzôn ngày một lớn , làm giảm khả năng bảo vệ sự sống của khí quyển ; ô nhiễm môi trường gia tăng, làm cho chất lượng sống bị xuống cấp ; đa dạng sinh học suy giảm , làm cho sự sống ngày càng bị đơn điệu , v.v .. Trong khi đó , hàng năm , các nước phát triển không thực hiện cam kết hỗ trợ trên 100 tỷ USD cho các nước nghèo để giải quyết các vấn đề phát triển và môi trường . Bằng việc thông qua Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000 , nước ta đã sớm hội nhập vào con đường phát triển bền vững của thế giới . Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định quan điểm chủ đạo của chiến lược phát triển đất nước là : " Phát triển nhanh , hiệu quả và bền vững , tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ , công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" . Phát triển bền vững chính là sự phát triển dựa trên sự kết hợp hài hoà ba lĩnh vực : kinh tế , xã hội và môi trường . Nhờ sự nỗ lực của các cấp , các ngành và nhân dân , công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong những năm gần đây đã có chuyển biến tích cực , thể hiện trên các mặt xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách , pháp luật ; thay đổi nhận thức và hành vi về bảo vệ môi trường; hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm , suy thoái và sự cố môi trường ; bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học . Những thành tựu đó đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân , chất lượng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Tuy nhiên , nhìn chung, công tác bảo vệ môi trường chưa tương xứng với mức độ gia tăng ô nhiễm và sự tác động xấu đối với môi trường của quá trình phát triển . Những thành tựu đạt được qua 20

185

năm đổi mới một phần quan trọng được dựa vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên . Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên bị khai thác cạn kiệt , sử dụng lãng phí và kém hiệu quả . Môi trường thiên nhiên ở nhiều nơi bị tàn phá nghiêm trọng, ô nhiễm và suy thoái đến mức báo động . Có thể nói , cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế , đất nước ta thực sự đang đứng trước nhiều thách thức về sự phát triển bền vững , trong đó , thách thức lớn nhất , cơ bản nhất là làm thế nào để hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài , giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường , giữa lợi ích thế hệ hiện tại và lợi ích thế hệ tương lai .

Đất đai là nguồn tài nguyên vô giá và có hạn đang ngày càng mất cân đối với nhu cầu phát triển . Diện tích đất canh tác tính theo đầu người giảm nhanh , hiện chỉ có 0,2ha /người và dự báo trong vòng 50 năm tới , chỉ còn khoảng 0,14 ha /người. Sự suy giảm đất canh tác ; sự suy thoái chất lượng đất và sa mạc hoá cũng đang diễn ra với tốc độ nhanh . Tình trạng xói mòn , rửa trôi , khô hạn , sạt lở , mặn hoá , phèn hoá , v.v. , đang xảy ra phổ biến ở nhiều nơi đã làm cho khoảng 50 % trong số 33 triệu ha đất tự nhiên được coi là " có vấn đề suy thoái" . Nước là nguồn tài nguyên không thể thay thế đang đứng trước nguy cơ suy thoái mạnh , chủ yếu do ô nhiễm từ nước thải gây ra . Hàng năm , có hơn một tỷ m3 nước thải hầu hết chưa được xử lý thải ra môi trường . Dự báo nước thải sẽ tăng hàng chục lần trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Khối lượng lớn nước thải này đang và sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng nhiều nguồn nước trên phạm vi cả nước , đặc biệt là các lưu vực sông , các hồ trong các đô thị lớn . Điển hình là ô nhiễm môi trường nước trên các lưu vực sông Cầu , sông Nhuệ , sông Đáy và sông Đồng Nai - Sài Gòn . Rừng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với con người nhưng hiện nay cũng đang phải đối mặt với sự suy giảm nhanh , đặc biệt

186

là về chất lượng . Chúng ta có thể đạt được mục tiêu 40 % độ che phủ của rừng vào năm 2010 , song chất lượng rừng thì ngày càng suy giảm . Cùng với rừng, đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng đối với con người và thiên nhiên . Việt Nam là nước có mức độ đa dạng sinh học đứng thứ 10 thế giới , nhưng tốc độ suy giảm được xếp vào loại nhanh nhất. Nhiều hệ sinh thái tự nhiên bị xâm phạm , suy giảm diện tích . Trong không đầy 50 năm , diện tích rừng ngập mặn suy giảm gần 3/4 . Quá trình đô thị hoá , công nghiệp hoá ở Việt Nam diễn ra nhanh chóng đang làm biến đổi các điều kiện môi trường và tài nguyên cả ở thành thị và nông thôn . Trong thực tế , những vấn đề môi trường đô thị và công nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt , tạo ra sức ép ngày càng tăng đối với môi trường. Bên cạnh việc cần phải xử lý triệt để trên 4.000 cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, đến năm 2012 , chúng ta lại phải giải quyết những vấn đề môi trường ở các cơ sở mới phát sinh , đặc biệt là đối với khoảng 100 khu công nghiệp , khu chế xuất và hàng trăm cụm công nghiệp rải rác ở nhiều địa phương trong cả nước mới được thành lập , nhưng hầu hết đều chưa có hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường đáp ứng yêu cầu . Hầu hết làng nghề trên cả nước đều không có hệ thống xử lý rác thải , nước thải và khí thải cũng đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần sớm được giải quyết . Đó là chưa kể một tỷ lệ lớn rác thải sinh hoạt , chất thải y tế chưa được xử lý ; một khối lượng đáng kể thuốc bảo vệ thực vật quá hạn sử dụng hoặc bị cấm sử dụng và chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam còn tồn lưu ở nước ta . Nguyên nhân chính của tình trạng trên có nhiều , nhưng chủ yếu là do chưa có nhận thức và cách giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường , do những bất cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường .

187

Nghị quyết số 41 - NQ/TW của Bộ Chính trị (năm 2004) về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước đã chỉ rõ con đường và các giải pháp bảo vệ môi trường. Dưới đây , chúng tôi xin đề xuất những nội dung cơ bản nhằm bảo vệ và cải thiện môi trường vì sự phát triển bền vững đất nước . Một là, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường. Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của nước ta thực sự bắt đầu khi Luật Bảo vệ môi trường có hiệu lực từ tháng 01-1994 . Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi năm 2005 (có hiệu lực từ 1-7-2006) là bước tiến quan trọng trong nỗ lực hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về môi trường . Cùng với việc nhanh chóng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi theo hướng hình thành các quy phạm rõ ràng, cụ thể , chi tiết và khả thi , chúng ta cần sớm nghiên cứu xây dựng và ban hành Luật về đa dạng sinh học , Luật về bảo vệ chất lượng không khí , Luật về bảo vệ môi trường biển , tiến tới xây dựng bộ luật hoàn chỉnh về môi trường bao gồm toàn bộ các thành phần môi trường , gắn việc phòng chống ô nhiễm với khai thác , sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên , gắn việc bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế và công bằng xã hội , xoá đói , giảm nghèo . Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường phải bảo đảm phù hợp với các yêu cầu của nền kinh tế thị trường, các yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và nội luật hoá các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam là thành viên . Bên cạnh đó , việc tăng cường phổ biến , giáo dục pháp luật là nhiệm vụ không thể thiếu trong công tác quản lý . Hai là, tổ chức thực hiện tốt pháp luật về bảo vệ môi trường . Nhìn chung, việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua chưa nghiêm túc , hiệu lực và hiệu quả thấp . Việc không tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường

188

diễn ra khá phổ biến . Trong số hàng nghìn dự án đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường , phần lớn các dự án , kể cả các dự án liên doanh trong nước và ngoài nước đã không thực hiện đầy đủ các yêu cầu về bảo vệ môi trường . Một số doanh nghiệp đã có hệ thống xử lý nước thải nhưng chỉ là hình thức , không vận hành hoặc chỉ vận hành đối phó . Hiện nay , có đến 70 % các khu công nghiệp không có hệ thống xử lý nước thải ; 90% các cơ sở sản xuất , kinh doanh dịch vụ không xử lý nước thải . Trong Bộ luật Hình sự hiện hành , có dành một chương quy định 10 loại tội phạm về môi trường nhưng hầu như chưa được triển khai trên thực tế. Mặc dù , các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng về bảo vệ môi trường đã được người dân , công luận lên tiếng phản ánh , trong đó có việc nhập khẩu trái phép chất thải của một số doanh nghiệp , việc xả chất ô nhiễm với khối lượng lớn ra sông, nạn buôn bán trái phép động thực vật hoang dã , quý hiếm , nạn khai thác tài nguyên bằng các phương tiện , công cụ có tính chất huỷ diệt, v.v. , nhưng cho đến nay hầu như chưa có vụ nào bị xử lý hình sự . Những hạn chế này cho thấy cần phải tăng cường cưỡng chế thi hành pháp luật và phải sử dụng tối đa sức mạnh của luật pháp để bảo vệ môi trường . Để thực hiện việc cưỡng chế này cần có sự tham gia , phối hợp chặt chẽ của các cơ quan bảo vệ pháp luật và sự giám sát thường xuyên của nhân dân . Ba là, phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác bảo vệ môi trường . Công tác bảo vệ môi trường đòi hỏi phải có các cơ chế phối hợp có tính hệ thống cao . Hiện nay , chúng ta chưa có đủ cơ chế để quản lý các vấn đề môi trường có tính liên ngành , liên vùng , liên lãnh thổ , xuyên quốc gia . Môi trường là vấn đề rộng lớn , vì vậy , các bộ , ngành và địa phương khi giải quyết cần phải có tầm nhìn tổng thể, hệ thống , nhưng phải có những hành động ưu tiên cụ thể , có trọng tâm , trọng điểm và thiết thực . Công tác bảo vệ môi trường đòi hỏi thiết lập cơ chế huy động và

189

phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị . Trong khi đó , chúng ta mới chỉ chú trọng đến việc hoàn thiện những cơ chế quản lý môi trường thuộc hệ thống cơ quan nhà nước mà chưa chú ý thoả đáng đến việc thiết lập các cơ chế để phát huy vai trò của các thành phần khác trong hệ thống chính trị như hội đồng nhân dân , Mặt trận Tổ quốc , các đoàn thể , v.v .. Vì vậy , chúng tôi đề nghị cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp tăng cường lãnh đạo , chỉ đạo và tạo điều kiện cho Mặt trận , đoàn thể và nhân dân tham gia quản lý , tổ chức thực hiện và giám sát công tác bảo vệ môi trường ; thực hiện cơ chế "dân biết , dân bàn , dân làm , dân kiểm tra " trong công tác bảo vệ môi trường ; chú trọng đẩy mạnh công tác xã hội hoá , đa dạng hoá các loại hình hoạt động bảo vệ môi trường, có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thực hiện các dịch vụ bảo vệ môi trường; khuyến khích thành lập các tổ chức đánh giá , tư vấn , giám định về bảo vệ môi trường . Hợp tác về bảo vệ môi trường với các nước và các tổ chức quốc tế có vai trò rất quan trọng . Cần xây dựng chiến lược hợp tác , huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực quốc tế , chú trọng tăng cường hợp tác quốc tế ở cấp địa phương và cơ sở ; tăng cường hợp tác với các quốc gia có chung đường biên giới , nhất là có chung các con sông để bảo vệ môi trường khu vực biên giới và kiểm soát ô nhiễm

xuyên biên giới ; phối hợp với các nước , các tổ chức

quốc tế nhằm

kiểm soát , phát hiện , ngăn chặn và xử lý nghiêm

mọi hành vi chuyển chất thải , công nghệ lạc hậu , gây ô nhiễm môi trường vào nước ta . Bốn là , tăng cường đầu tư nguồn lực cho công tác bảo vệ môi trường . Mục tiêu phát triển bền vững sẽ không trở thành hiện thực nếu chúng ta không có chiến lược đầu tư hợp lý , công bằng giữa lợi ích

trước mắt và lâu dài , trên cơ sở chú trọng đầu tư phát triển

kinh tế , quan tâm đến an sinh xã hội và bố trí nguồn lực hợp lý cho bảo vệ môi trường . Có như vậy , các trụ cột của tiến trình phát

190

triển mới bền vững , nhu cầu của các thế hệ hiện tại được đáp ứng ngày càng tốt hơn và cơ hội phát triển của các thế hệ tương lai vẫn được gìn giữ . Hiện nay , đã có chủ trương đầu tư không dưới 1 % tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm cho sự nghiệp môi trường . Tuy vậy , mức đầu tư này quá thấp so với các quốc gia có cùng trình độ phát triển . Thực tế, việc cải tạo kênh mương đã bị ô nhiễm tại các thành phố lớn cho thấy trung bình cần không dưới 1 triệu USD cho việc cải tạo lần đầu 1km kênh . Việc trồng lại rừng , cải tạo đất đã bị ô nhiễm và suy thoái , việc ngăn ngừa ô nhiễm không khí đòi hỏi các khoản kinh phí rất lớn ... Nhà nước cần có chính sách huy động các nguồn lực trong xã hội đầu tư cho bảo vệ môi trường , có giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc "người gây ô nhiễm phải trả tiền " . Ngoài việc đầu tư kinh phí thoả đáng , rất cần coi trọng việc xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý môi trường và tổ chức sự nghiệp môi trường ở các cấp , nhất là các cấp địa phương ; tăng cường về lượng và chất đội ngũ cán bộ quản lý môi trường , tương xứng với yêu cầu bảo vệ môi trường đang đặt ra ngày càng nặng nề .

* *

*

Chúng ta có cơ sở để làm tốt công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong thời gian tới . Các quan điểm về môi trường và phát triển bền vững đã được Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX , Nghị quyết số 41 - NQ/TW của Bộ Chính trị khẳng định và đã được cụ thể hoá trong Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 , Chương trình Nghị sự 21. Đặc biệt , trong Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi vừa được Quốc hội thông qua , các nội dung cơ bản vừa trình bày ở trên đã được đưa

191

vào và sẽ trở thành những chế tài quan trọng trong việc quản lý, bảo vệ môi trường , hướng tới sự phát triển bền vững . Trong số 19 nhóm lĩnh vực cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững đặt ra trong UCHOMON Valu ZU ¥ ALISOIKRE (

Chương trình Nghị sự 21 , có 5 nhóm lĩnh vực kinh tế , 5 nhóm lĩnh vực xã hội và có tới 9 lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên và môi trường . Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường là một trong ba trụ cột của phát triển bền vững . Quán triệt các quan điểm chỉ đạo của Đảng, các nguyên tắc , mục tiêu bảo vệ môi trường, bằng các hoạt động cụ thể về tăng cường công tác quản lý nhà nước về môi trường , Đại hội X cần khẳng định quyết tâm đưa sự nghiệp bảo vệ môi trường của đất nước lên một tầm cao mới , góp phần phát triển bền vững đất nước .

192

PHẤN ĐẤU ĐẾN NĂM 2010 KHÔNG CÒN XÃ ĐẶC BIỆT KHÓ KHĂN VÀ HOÀN THÀNH TỐT NHIỆM VỤ DI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ THUỶ ĐIỆN SƠN LA ( Tham luận của đồng chí Thào Xuân Sùng , Bí thư Tỉnh uỷ , đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La )

Trong 5 năm qua , Đảng bộ tỉnh Sơn La đã quán triệt sâu sắc những quan điểm , chủ trương và giải pháp chỉ đạo của Trung ương, tìm tòi cách làm và bước đi phù hợp với thực tiễn tình hình địa phương để thực hiện tốt tư tưởng chỉ đạo của Đại hội IX là tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội , mà một trong những nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn và di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La . Đảng bộ tỉnh đã nhận thức sâu sắc rằng : thực hiện tốt chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi , vùng sâu , vùng xa và chương trình di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La là vận hội to lớn để tỉnh Sơn La cùng với các tỉnh Tây Bắc bố trí , sắp xếp lại dân cư, quy hoạch lại sản xuất , đẩy mạnh đầu tư phát triển kinh tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nâng cao đời sống nhân dân , giữ vững ổn định chính trị - xã hội , tăng cường , củng cố quốc phòng , an ninh , khai thác và phát huy tiềm năng lợi thế của địa phương, xoá đói , giảm nghèo và từng bước vươn lên giàu có . Đó là quyết tâm cao cả , nhiệm vụ lịch sử trọng đại và vinh quang của cán bộ , đảng viên , công nhân , viên chức và nhân dân các dân tộc

193

tỉnh Sơn La "vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc" . Song , bắt đầu từ đâu , bước đi và cách làm như thế nào để đảm bảo tính ổn định , kế thừa và phát triển vững chắc thì thật sự là một vấn đề không dễ gì tìm được lời giải đáp thoả đáng, đòi hỏi Tỉnh uỷ phải vượt qua nhiều khó khăn , phức tạp và phải nhẫn nại , kiên trì , vừa làm , vừa sơ kết , rút kinh nghiệm những cách chỉ đạo có hiệu quả . Để từng bước đạt tới sự tăng trưởng kinh tế bền vững và có bước đi phù hợp , Tỉnh uỷ đã quyết định lựa chọn 364 bản đặc biệt khó khăn nhất , với 13.407 hộ và 81.557 khẩu chưa ổn định sản xuất và đời sống , chưa có hoặc chưa có đủ hệ thống chính trị cơ sở , ở một số bản nằm dọc địa bàn biên giới Việt Nam - Lào có dấu hiệu bị bọn phản động nước ngoài lôi kéo , kích động chia rẽ và mua chuộc , đã và đang truyền học đạo trái phép , du canh du cư và lén lút tái trồng cây thuốc phiện , tiềm ẩn những yếu tố tiêu cực có thể gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội , để tập trung nguồn vốn ngân sách nhà nước và đầu tư, hỗ trợ trực tiếp đến bản và đến hộ bằng cách lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ (chương trình 135 , chương trình 134 , các chương trình , mục tiêu quốc gia , chương trình 186 , vốn dự án giảm nghèo WB , ngân sách tỉnh) . Trong chương trình đầu tư , hỗ trợ trực tiếp đối với 364 bản và 13.407 hộ đặc biệt khó khăn chưa ổn định sản xuất và đời sống , tỉnh tập trung chỉ đạo , giúp đỡ nhân dân vào 5 lĩnh vực thiết thực nhất : xây dựng kết cấu hạ tầng ; hỗ trợ sản xuất và đời sống ; xây dựng lớp học , nhà văn hoá , trạm thu phát truyền thanh , truyền hình , thuốc chữa bệnh ; thực hiện chính sách phụ cấp cho đội ngũ cán bộ không chuyên trách công tác ở xã và bản ; xây dựng , củng cố hệ thống chính trị cơ sở , nhất là đào tạo 639 cán bộ xã có trình độ đại học kinh tế nông nghiệp , tập huấn cho 681 cán bộ xã và 5.375 lượt cán bộ bản để hướng dẫn nhân dân các dân tộc thiểu số "biết tính toán , biết sản xuất hàng hoá , biết

194

tiêu dùng "

trong công cuộc cách mạng xoá đói giảm nghèo và

vươn lên giàu có ở miền núi . Trong quá trình thực hiện chương trình đầu tư, hỗ trợ trực tiếp đến 364 bản đặc biệt khó khăn nhất nói riêng và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung của tỉnh, tỉnh chỉ đạo liên ngành tài chính - kế hoạch đầu tư - kho bạc nhà nước - nông nghiệp và phát triển nông thôn - giao thông vận tải , xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể đến cơ sở ; thành lập ban chỉ đạo tỉnh, ban chỉ đạo huyện , ban giám sát xã và ban giám sát bản để tổ chức vận động nhân dân thực hiện , bảo đảm phương châm : " Nhà nước đầu tư, dân biết , dân bàn , dân làm , dân kiểm tra ; bản có công trình tốt , dân có việc làm và tăng thu nhập " , thực hiện tốt hương ước , quy ước của bản và huy động được đông đảo nhân dân tham gia . Do đó, chương trình 364 bản đã đem lại tác dụng tích cực và sự chuyển biến to lớn trong phát triển kinh tế , xoá đói giảm nghèo , thực hiện nếp sống có văn hoá , tăng cường và củng cố an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và củng cố hệ thống chính trị cơ sở của tỉnh sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng . Trong những năm qua , chính sách và cách đầu tư , hỗ trợ trực tiếp cho 364 bản chưa ổn định sản xuất và đời sống thuộc 86 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh đã được mở rộng áp dụng vào công tác di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La , xây dựng các điểm , khu tái định cư , nhất là làm đường giao thông phục vụ di dân và xây dựng nhà ở của 12.479 hộ dân và 62.394 khẩu ở 146 bản , 17 xã thuộc 3 huyện Mường La , Quỳnh Nhai , Thuận Châu . Để xây dựng, hoàn chỉnh chính sách bồi thường di dân , tái định cư Thuỷ điện Sơn La và cơ chế quản lý , điều hành , tổ chức thực hiện dự án tái định cư này có hiệu quả , tỉnh đã lấy xã Tân Lập , huyện Mộc Châu làm thí điểm mô hình di dân xen ghép tập trung do Nhà nước xây dựng nhà ở kiên cố cho nhân dân , và lấy xã Mường Chùm , huyện Mường La để làm thí điểm mô hình di dân xen ghép tập trung cho nhân

195

dân dỡ nhà cũ về dựng lại ở nơi mới . Tỉnh uỷ đã thành lập ban chỉ đạo để nghiên cứu kỹ lưỡng các mô hình di dân thuỷ điện trong nước và tiến hành sơ kết rút kinh nghiệm hai mô hình thí điểm trên đây để phối hợp với các bộ xây dựng chính sách trình Ban Chỉ đạo Nhà nước dự án Thuỷ điện Sơn La và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét , quyết định . Tỉnh đã xác định rõ và triển khai thực hiện tốt các giải pháp : quy hoạch , bố trí di dân , tái định cư gắn chặt với điều chỉnh dân cư, bố trí lại đất sản xuất , phân bố lại lao động; di dân tái định cư nội tỉnh là chính và di dân tái định cư xen ghép tập trung là chủ yếu ; xác định cơ chế chia vốn đầu tư bình quân cho một hộ dân tái định cư theo tỷ lệ bồi thường và xây dựng nhà được sử dụng tối đa không quá 25 % , các xã đón dân đến tái định cư được sử dụng tối đa không quá 60 % để trả tiền đền bù đất ở và đất sản xuất cho các hộ bị thu hồi đất , xây dựng cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi , đầu tư phát triển sản xuất và hỗ trợ đời sống , các huyện được sử dụng tối đa không quá 15 % vốn tái định cư để đầu tư các công trình liên xã đã có tác dụng rất lớn nhằm khuyến khích các xã và hộ dân tham gia một cách tự giác vào việc chia lại quỹ đất và sẵn sàng đón nhận dân tái định cư ; kiện toàn các ban quản lý dự án các ngành và các cấp , tăng cường cán bộ dân vận và cán bộ chuyên môn về ba huyện trọng điểm để giúp huyện làm tốt công tác thống kê , áp giá , thẩm định , thanh quyết toán tiền đền bù đảm bảo kịp thời , chính xác và đầy đủ cho các hộ dân ; đầu tư xây dựng các khu , các điểm tái định cư có đủ những điều kiện cần thiết về cơ sở hạ tầng , đất ở , đất sản xuất , đất bãi chăn nuôi đại gia súc , đất nghĩa địa theo hướng xây dựng "bản mới phát triển toàn diện " ; gắn chặt nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự ở các khu , điểm tái định cư Thuỷ điện Sơn La ; tăng cường kiểm tra , thanh tra , giám sát và làm tốt công tác thi đua , khen thưởng để " có công trình tốt , cán bộ

196

tốt và lòng dân yên " . Đó là tâm huyết , trăn trở và lời hứa thiêng liêng của Đảng bộ tỉnh chúng tôi đối với công tác di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La .

Với cách làm và bước đi phù hợp , sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ta , tỉnh Sơn La đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, tích cực và khá toàn diện , tạo được nền tảng cơ bản về tiền đề thuận lợi cho giai đoạn phát triển tiếp theo , cho phép thực hiện quyết tâm phấn đấu và mong ước thiết tha của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Sơn La là " sớm đưa Sơn La ra khỏi tình trạng một tỉnh đặc biệt khó khăn " . Đến cuối năm 2005 , nền kinh tế của tỉnh đạt tốc độ tăng trưởng 15,55% và bình quân 5 năm (2001-2005) đạt 11,6% . Các ngành , các lĩnh vực, các thành phần kinh tế và các khu vực vùng đều có bước phát triển mới , tích cực . Xây dựng ổn định các vùng sản xuất chuyên canh 10.589 ha cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao ; 264.500 con đại gia súc ăn cỏ . Rừng được khôi phục , khoanh nuôi bảo vệ và trồng mới nên đã nâng độ che phủ từ 25% năm 2000 lên 40 % năm 2005. Huy động được tổng vốn đầu tư phát triển trên 12.000 tỷ đồng , tăng 5,26 lần so với năm 2000 , cơ cấu lại hợp lý các khoản chi đảm bảo tỷ lệ 40-45 % ngân sách chi cho khu vực vùng III đặc biệt khó khăn và đã đầu tư xây dựng được trên 1.500 công trình làm tăng giá trị năng lực mới tăng thêm trên 6.000 tỷ đồng , trong đó đưa toàn bộ hệ thống đường giao thông nông thôn của tỉnh lên tổng chiều dài 5.100 km và có 2.696 bản , tiểu khu , tổ dân phố trên 3.015 bản , tiểu khu , tổ dân phố đã có đường giao thông mặt đường rộng 3m trở lên , đi lại khá thuận lợi vào mùa khô . Công tác di dân được thực hiện hoàn thành đúng tiến độ đợt I ở cốt ngập 140m với 1.809 hộ và hơn 1 vạn khẩu , đảm bảo an toàn , phục vụ lễ khởi công và ngăn sông Đà vào ngày 02-12-2005 , tìm được mô hình di dân tốt để di dân tái định cư thuỷ điện thành công . 100 % xã có điện thoại , 9/11 huyện , thị xã có phủ sóng điện thoại di động, 183/201 xã có nhà

197

văn hoá , toàn tỉnh có 1.627 đội văn nghệ thôn , bản , 95 % dân số được nghe đài , 80 % dân số được xem truyền hình , 199 xã có điện lưới quốc gia ; tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 26 % năm 2000 xuống còn 11 % năm 2005 theo tiêu chí cũ ; có thêm 2.195 phòng học kiên cố và 148 nhà ở giáo viên , nhà bán trú học sinh vùng III , v.v .. Có 16 xã đã hoàn thành mục tiêu Chương trình 135 của Chính phủ theo quy định tại Thông tư hướng dẫn số 218 /2005 / TT -UBDT , ngày 29-32005 , của Uỷ ban Dân tộc . Có thể nói , có nhiều công trình trước đây đồng bào dân tộc các xã vùng III đặc biệt khó khăn chưa bao giờ nghĩ tới thì nay đã là hiện thực , tạo nên sự thay đổi và tiến bộ về vật chất , tinh thần và dân trí trong đời sống xã hội từ mỗi gia đình , mỗi thôn , bản và cả bộ mặt nông thôn vùng núi cao , củng cố tình cảm cách mạng và niềm tin tưởng của đồng bào các dân tộc thiểu số đối với Đảng , Nhà nước ta . Chính những việc làm cụ thể , thiết thực đó đã có sức cảm hoá sâu sắc đồng bào các dân tộc thiểu số vốn quen đánh giá cán bộ và con người qua hành động thực tiễn .

Trên diễn đàn Đại hội này , cho phép tôi thay mặt Đảng bộ , chính quyền và toàn thể đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La xin chân thành cảm ơn sự quan tâm lãnh đạo, giúp đỡ to lớn của Trung ương Đảng, Quốc hội , Chính phủ , Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , các đoàn thể cùng đồng bào cả nước đã " chung tay cùng Thuỷ điện Sơn La " và luôn ủng hộ Sơn La trong công cuộc xoá đói , giảm nghèo . Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La cũng xin trân trọng đề nghị Đại hội ghi nhận , biểu dương sự điều hành năng động, sáng tạo và có hiệu quả của Chính phủ , sự đóng góp và giúp đỡ của các doanh nghiệp và đồng bào cả nước , sự nỗ lực , cố gắng và quyết tâm phấn đấu bền bỉ của cán bộ , chiến sĩ đã và đang công tác ở vùng III đặc biệt khó khăn của nước ta . Những kết quả và thành tựu của tỉnh Sơn La về phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội và di dân tái định cư thuỷ điện mới là bước

198

đầu . Trong 5 năm tới , để tỉnh Sơn La cùng các tỉnh miền núi của nước ta có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội , chúng tôi xin có một số kiến nghị với Đại hội : 1. Về phương hướng , nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 , trong việc định hướng phát triển ngành , lĩnh vực và vùng , chúng tôi nhất trí "Nhà nước đầu tư nhiều hơn và phát huy khả năng trợ giúp của xã hội để thực hiện tốt xoá đói , giảm nghèo ở nông thôn , đặc biệt ở các vùng sâu , vùng xa " . Nhưng đề nghị bổ sung thêm vào sau cụm từ "vùng xa " đoạn văn "phấn đấu đến năm 2010 không còn xã đặc biệt khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La " . 2- Tiếp tục bố trí và tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước theo hướng đầu tư , hỗ trợ trực tiếp cho các thôn , bản , phum , sóc , hộ gia đình chưa ổn định sản xuất và đời sống thuộc các xã đặc biệt khó khăn đảm bảo xuất đầu tư tối thiểu được 150 triệu đồng/ thôn , bản và căn cứ vào thực trạng khó khăn để có định mức đầu tư thích hợp hàng năm từ năm 2006 đến năm 2010. Đồng thời , giao nguồn vốn đầu tư , hỗ trợ trực tiếp đến thôn , bản , phum , sóc cho Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý và tỉnh có trách nhiệm phân cấp làm chủ đầu tư cho cơ sở phù hợp với trình độ , năng lực của cán bộ , báo cáo Hội đồng nhân dân tỉnh quyết nghị và giám sát thực hiện . Về vấn đề này , Bác Hồ đã từng căn dặn : "Bất cứ việc to việc nhỏ , chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá , thói quen sinh hoạt , trình độ giác ngộ , kinh nghiệm tranh đấu , lòng ham , ý muốn , tình hình thiết thực của quần chúng . Do đó mà định cách làm việc , cách tổ chức . Có như thế, mới có thể kéo được quần chúng . Nếu không vậy , nếu cứ làm theo ý muốn , theo tư tưởng , theo chủ quan của mình , rồi đem cột vào cho quần chúng , thì khác nào "khoét chân cho vừa giày" . Chân là quần chúng . Giày là cách tổ

199

chức và làm việc của chúng ta . Ai cũng đóng giày theo chân . Không ai đóng chân theo giày" . 3- Về công tác quản lý , bảo vệ và phát triển rừng , chúng tôi đồng tình định hướng "giải quyết ổn định vấn đề lương thực cho các hộ thuộc diện nghèo , nhất là đồng bào dân tộc thiểu số , gắn với việc giao khoán rừng" . " Xây dựng đề án hỗ trợ lương thực và chính sách điều tiết lương thực cho các hộ đồng bào ở vùng trung du và miền núi để đồng bào chuyển đổi phương thức sản xuất lương thực trên đất nương rẫy sang bảo vệ , khoanh nuôi và trồng rừng, trồng cây ăn quả và cây công nghiệp " . Trước mắt , Nhà nước cần tăng mức đầu tư và điều chỉnh một số chính sách cho Chương trình 661 để thực hiện đến nơi đến chốn các đề án bảo vệ rừng, phê duyệt vốn và chính sách để thực hiện dự án khôi phục và phát triển rừng vùng lưu vực sông Đà trong di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La . Cho phép các địa phương trong vùng được sử dụng thuế tài nguyên thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện trong nước để đầu tư phát triển rừng phòng hộ gắn với chương trình bảo vệ và phát triển rừng của nước ta . Nghiên cứu thành lập trung tâm hoặc viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp khu vực Tây Bắc để nghiên cứu môi trường thiên nhiên và con người , nghiên cứu về rừng hiếm có và xây dựng các khu vực bảo tồn thiên nhiên , nghiên cứu các giải pháp phòng, chống thiên tai lũ quét và sạt lở đất , xác lập tổng sơ đồ và phân bố lực lượng sản xuất làm căn cứ cho việc đầu tư phát triển kinh tế hàng hoá ở vùng này . Trong 5 năm tới, cần thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia về lập quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất và phát triển rừng , bố trí ngân

1. Hồ Chí Minh : Toàn tập , Nxb . Chính trị quốc gia , Hà Nội , 1995 , t . 5 , tr.248.

200

sách thoả đáng và cán bộ có trách nhiệm để thực hiện có hiệu quả Luật đất đai , Luật bảo vệ rừng và Luật bảo vệ môi trường ; tiếp tục nghiên cứu thấu đáo , đổi mới chính sách giao đất , giao rừng , bảo đảm cho người làm rừng có cuộc sống ổn định và từng bước được cải thiện , hướng tới có nhiều hộ gia đình làm rừng có cuộc sống khá giả và giàu có . Nếu không vậy, để tự túc lương thực và kiếm ăn , đồng bào các dân tộc vùng trung du và miền núi vẫn phải phát rừng làm nương rẫy , càng phát rừng làm nương thì đất càng xói mòn , đất càng xói mòn thì càng đói , càng đói càng du canh du cư vào nơi có rừng , càng du canh dư cư thì càng nghèo đói , làm vốn rừng bị giảm sút và môi trường sinh thái bị huỷ hoại . Cho nên , nếu có rừng sẽ có nước , có nước sẽ có thuỷ lợi , thuỷ điện , có thuỷ lợi , thuỷ điện sẽ có ruộng đồng , có ruộng đồng sẽ có lương thực , thực phẩm , có lương thực , thực phẩm sẽ có rừng . Do đó , nếu Đảng và Nhà nước ta có chính sách đúng và cách làm phù hợp thì nhất định đồng bào ta sẽ làm được và có cuộc sống tốt .

201

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN VÀ NÔNG DÂN ( Tham luận của đồng chí Vũ Ngọc Kỳ , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Đảng đoàn , Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan dân vận Trung ương )

Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, gần 20 năm qua , nhất là trong 5 năm 2001-2005, nông nghiệp , nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt . Cùng với sự phát triển kinh tế , thu nhập , đời sống , trình độ nhiều mặt của nông dân về sản xuất nông nghiệp , xây dựng nông thôn mới đã được nâng lên rõ rệt . Nhiều sản phẩm do nông dân sản xuất ra đã đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và xuất khẩu với số lượng lớn , đứng thứ hạng cao trong khu vực và thế giới như gạo , cà phê , tiêu , điều ... ; tỷ trọng xuất khẩu chiếm tương đối cao trong kim ngạch xuất khẩu chung . Tư liệu sản xuất được tăng cường , việc làm của nông thôn đạt 80 % , đời sống thu nhập chung của khu vực nông thôn đạt khoảng 256 USD /người/năm (hơn 4 triệu đồng ) . Cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã được đầu tư xây dựng như giao thông , điện , nước , trường học , trạm xá , nhà ở của dân ... tương đối tốt . Đến năm 2005 , đã có 95 % số xã có đường ôtô đến trung tâm xã ; 85,5 % số xã và 78 % số hộ được sử dụng điện ; 54,2 % số hộ có

202

tivi ; 45,7% số hộ có rađiô ; 99 % số xã có trạm y tế; 94 % số xã được phủ sóng truyền hình ; 68,6% số xã và trên 62 % số dân ở nông thôn được sử dụng nước sạch ... ; tỷ lệ hộ nghèo đói đã giảm đáng kể , chỉ còn dưới 7 % năm 2005. Nhờ đó , bộ mặt nông thôn đã thay đổi rõ rệt . Cơ cấu kinh tế nông thôn đã thay đổi tích cực , trên bình diện chung thì hiện nay ở vùng nông thôn giá trị GDP công nghiệp chiếm 15% , dịch vụ chiếm 15 % , còn lại 70% là nông nghiệp . Có thể khẳng định trong thập kỷ qua (nhất là 5 năm 2001-2005) , nông nghiệp , nông thôn và nông dân đã đạt được thành tựu to lớn , nhờ vậy mà đời sống nông dân đã được cải thiện rõ rệt cả về vật chất lẫn tinh thần , góp phần quan trọng vào sự nghiệp ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Tuy nhiên , do tác động của các yếu tố kinh tế thị trường còn một số bất cập trong tổ chức và quản lý nền sản xuất nông nghiệp , nông thôn và do thiên tai có chiều hướng diễn biến phức tạp nên đời sống một số phận nông dân hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức . Hiện nay, theo tiêu thức mới , vẫn còn 4,2 triệu hộ nông dân trong tổng số 14,6 triệu hộ nông dân ở diện đói nghèo , vùng Tây Bắc chiếm hơn 60 % , Tây Nguyên hơn 50% , các vùng miền khác cũng chiếm tỷ tệ cao ... thu nhập của nông dân hiện nay mới bằng hơn 40 % so với bình quân thu nhập chung của cả nước . Cơ sở hạ tầng ở nông thôn yếu kém , thiếu đồng bộ , nhất là ở vùng sâu , vùng xa , vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa đảm bảo phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp hàng năm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn . Tiềm năng trong nông, lâm nghiệp , ngư nghiệp của nước ta còn rất lớn , kể cả về đất đai , rừng, biển , nguồn lao động… , có khả năng tăng nhanh về số lượng sản phẩm , chất lượng và hiệu quả kinh tế cao , góp phần tích cực vào giải quyết việc dư thừa lao động hiện nay và tăng thêm trong những năm tới .

203

Vấn đề nông nghiệp , nông thôn và nông dân có ý nghĩa chiến lược to lớn và có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước những năm tới. Văn kiện của Đại hội cũng đã xác định rõ những nhiệm vụ và giải pháp chính cho nông nghiệp , nông thôn , nông dân trong giai đoạn 2006-2010 . Để thực hiện có hiệu quả chủ trương , đường lối của Đảng , tôi thấy cần phải giải quyết một cách đồng bộ và tổng thể nhiều mối quan hệ , các giải pháp tích cực ở mức cao cho nông nghiệp , nông thôn và nông dân . Dưới đây xin đề cập một số nội dung cần quan tâm chỉ đạo trong thời gian tới :

1. Cần phải làm tốt và có chất lượng công tác rà soát quy hoạch tổng thể và cho từng vùng để xác định việc phát triển sản xuất các cây trồng , vật nuôi phù hợp với xu thế của thị trường trong nước và thế giới nhằm đảm bảo sản phẩm của nông dân sản xuất ra được tiêu thụ một cách ổn định và đạt hiệu quả kinh tế cao . Trên cơ sở quy hoạch đó , đẩy mạnh sản xuất hàng hoá theo hướng xuất khẩu . Xác định tập đoàn cây công nghiệp , cây ăn quả , cây lương thực , cây dược liệu , nguyên liệu , giấy sợi , cũng như các loại gia súc , thuỷ hải sản ở từng vùng, nhằm phát huy lợi thế so sánh cũng như gắn với truyền thống sản xuất của nông dân . 2. Đẩy mạnh việc thực hiện chương trình chuyển đổi cơ cấu gắn với xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại , có chất lượng cao , hiệu quả và khả năng cạnh tranh nhằm hội nhập với thị trường trong khu vực và thế giới. Đối với lúa gạo , tiếp tục phát huy lợi thế về trồng lúa ở vùng đồng bằng, nhất là ở đồng bằng sông Cửu Long; tập trung vào nâng cao năng suất , chất lượng và hạ giá thành sản phẩm . Phát triển các cây công nghiệp trên cơ sở phát huy lợi thế của từng vùng kết hợp với áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn , gắn với công nghiệp chế biến và thị trường . Tiếp tục mở rộng cây ăn quả có lợi thế , tập trung chủ yếu ở các vùng nguyên liệu cho các nhà máy

204

công nghiệp chế biến . Phát triển các loại gia súc , gia cầm sản xuất hàng hoá theo hướng hình thành các vùng chăn nuôi tập trung , theo hình thức nuôi công nghiệp gắn với cơ sở chế biến và xử lý chất thải , tập trung xây dựng vốn rừng hiện có , tiếp tục khoanh nuôi tái sinh kết hợp với việc giữ rừng , cần rà soát lại diện tích này ; phát triển mạnh rừng kinh tế chất lượng và hiệu quả cao , góp phần nâng cao đời sống người trồng rừng . Nâng cao kiến thức , năng lực cho người lao động để họ tiếp cận với khoa học và công nghệ mới , chuyển giao nhanh và áp dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ , trong đó chú trọng đưa công nghệ sinh học đến nông thôn , nông dân thông qua các chương trình tập huấn , khuyến nông , lâm , công, ngư , diêm ... làm cho người sản xuất có khả năng áp dụng khoa học - kỹ thuật cao . Tổ chức tốt việc dạy nghề cho nông dân (cả nghề để làm sao cho trồng trọt, chăn nuôi có chất lượng và hiệu quả cao hơn ; học nghề để chuyển sang các ngành nghề khác và vào nhà máy , xí nghiệp , nhất là đối với vùng dân cư nông dân không còn đất sản xuất , do phát triển khu công nghiệp và đô thị hoá , cũng như đối với đồng bào dân tộc thiểu số ) . Đào tạo nghề phải phù hợp với yêu cầu , nguyện vọng lao động của từng vùng. Đào tạo cả về kiến thức và kỹ năng lao động sản xuất . Chú trọng việc đào tạo nghề tại chỗ . Tiếp tục xây dựng các mô hình trình diễn kỹ thuật , các điển hình ở cơ sở để cho nông dân học tập và làm theo. 3. Tổ chức tốt các dịch vụ về vốn , vật tư, khoa học - kỹ thuật , thông tin phục vụ cho nhu cầu phát triển nông nghiệp : Về vốn : Trong những năm qua, các ngân hàng đã cho các thành phần kinh tế ở nông thôn vay một lượng vốn tương đối lớn , tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vốn phát triển sản xuất của nông dân ; bình quân hiện nay, một hộ nông dân mới được vay trên 10 triệu đồng, trang trại mới được vay khoảng 30 triệu đồng, các hộ nghèo mới được vay bình quân 2 triệu đồng /hộ . Cần tiếp tục mở

205

rộng hình thức tín chấp thông qua các tổ chức đoàn thể nhân dân và nâng mức vay thông qua tín chấp lên gấp đôi so với hiện nay . Cùng với cho vay vốn đối với các hộ có điều kiện để mở rộng sản xuất, phải tiếp tục thông qua kênh Ngân hàng Chính sách xã hội để tăng mức vay gấp 3 so với hiện nay cho các hộ nghèo, vùng khó khăn . Cùng với việc vay vốn thông qua nhiều kênh tín dụng, nhất là hệ thống khuyến nông phải tổ chức tốt các dịch vụ hướng dẫn nông dân cách làm ăn , chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn . . Vật tư cho sản xuất nông nghiệp hết sức quan trọng , đảm bảo yêu cầu thâm canh , áp dụng công nghệ mới để tăng nhanh năng suất và sản lượng sản phẩm . Vì vậy, cần phải có chính sách ổn định giá các vật tư chủ yếu cho sản xuất như phân đạm , xăng dầu , điện , các vật tư bảo vệ thực vật ... nhằm đảm bảo giá đầu vào cho sản xuất một cách ổn định . Tổ chức và phát triển mạnh hệ thống khuyến công , nông , lâm , ngư , nhất là khuyến nông cơ sở , nhằm chuyển giao các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất ; đặc biệt là đối với những nơi diện tích canh tác thấp thì đòi hỏi phải tổ chức sản xuất sinh học và công nghệ cao , nhằm đem lại hiệu quả kinh tế . 4. Gắn giữa sản xuất với công nghiệp chế biến vừa và nhỏ , nhưng hiện đại thích ứng với quy mô từng vùng nguyên liệu và các sản phẩm của nông dân . Tổ chức tốt sự liên kết nguyên liệu đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm cho nông dân , tiến đến việc giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp cùng chung vốn cổ phần để mở rộng sản xuất và đưa phần lãi thu được đôi bên cùng có lợi . Cần có chính sách hỗ trợ về đất đai , hạ tầng , về vốn , về đào tạo lao động , v.v. , để thu hút mạnh mẽ các cá nhân , tổ chức đầu tư phát triển công nghiệp chế biến ở các vùng sâu , vùng xa , vùng dân tộc thiểu số tiêu thụ các sản phẩm của nông dân . 5. Tổ chức thực hiện tốt việc liên kết 4 nhà (nhà nước , nhà nông , nhà doanh nghiệp , nhà khoa học) . Trong 4 nhà này thì Nhà

206

nước giữ vai trò chủ đạo, giao việc tổ chức sự liên kết này cho Hội Nông dân làm đầu mối để tập hợp và phối hợp thực hiện . Sự liên kết trên phạm vi toàn quốc và ở từng địa phương cho phù hợp . Coi trọng việc liên kết song phương giữa các nhà với nhau (ví dụ : nhà nông với Nhà nước , nhà doanh nghiệp ...) . 6. Khuyến khích phát triển mạnh các thành phần kinh tế đầu tư vào nông nghiệp , nông thôn .

- Tiếp tục có các chính sách cởi mở để khuyến khích kinh tế hộ phát triển , hướng tới hình thành các doanh nghiệp tư nhân nông dân sản xuất kinh doanh một cách tự chủ, năng động. Củng cố và tạo điều kiện cho các trang trại phát triển , chú trọng về hiệu quả kinh tế cũng như tính xã hội trong việc giúp đỡ những người nghèo và khó khăn , lôi cuốn họ để có điều kiện phát triển lên thành những hộ sản xuất kinh doanh khá . Tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác một cách đa dạng, có các chính sách khuyến khích , hỗ trợ hợp tác xã được công khai , bình đẳng như các doanh nghiệp khác . - Cần có sự điều chỉnh phù hợp chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp , các ngành sản xuất dịch vụ ở các vùng nông thôn , nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ . 7. Cùng với đi đôi khuyến khích nông dân sản xuất phát triển kinh tế , nâng cao cuộc sống , tiến tới giàu có , chúng ta phải đặc biệt tập trung cao hơn cho việc xoá đói , giảm nghèo , nhất là đối với các vùng tỷ lệ nghèo đói hiện nay còn cao , bằng các giải pháp như : Nâng cao nhận thức để các hộ đói nghèo vươn lên , huy động toàn xã hội tích cực tham gia , thực hiện tốt chương trình xoá đói , giảm nghèo của Chính phủ đã đề ra , nâng cao sự nhận thức tiếp cận với khoa học - kỹ thuật và trình độ để những hộ còn đói nghèo biết cách sản xuất , bằng cách "cầm tay chỉ việc" , xây dựng mô hình , khuyến nông, lâm , hỗ trợ về vốn từ các ngân hàng theo sự ưu đãi đối với các vùng miền cho thích hợp ; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng,

207

nhất là về giao thông và thuỷ lợi ở nông thôn các vùng , các xã nghèo ... ; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng , điều hành của Nhà nước , các cấp , các ngành cho chương trình xoá đói , giảm nghèo . 8. Củng cố , xây dựng các cơ sở đảng và nâng cao chất lượng cán bộ , đảng viên ở nông thôn . Đào tạo một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực cho cơ sở. Đẩy mạnh xã hội hoá , giao nhiều công việc hơn cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân , phối hợp với các ngành , các cấp tham gia phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Chăm lo xây dựng giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt Nam , nhằm xây dựng Hội Nông dân Việt Nam thực sự " là trung tâm và nòng cốt cho phong trào nông dân và công cuộc xây dựng nông thôn mới " như Nghị quyết của Đảng đã xác định .

208

NÔNG DÂN , NÔNG NGHIỆP , NÔNG THÔN - HIỆN TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG ( Tham luận của đồng chí Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long , Đại biểu Đảng bộ thành phố Cần Thơ )

Trong 20 năm đổi mới , thắng lợi rõ rệt nhất của nông nghiệp Việt Nam là tạo ra và duy trì một quá trình sản xuất tăng trưởng với tốc độ nhanh , ổn định trong một thời gian dài . Đó là đặc điểm quan trọng cho một nước đang ở trình độ phát triển thấp , chủ yếu dựa vào kinh tế nông nghiệp , bắt đầu chuyển sang công nghiệp hoá như nước ta . Tính từ năm 1986 đến năm 2003 , nông nghiệp Việt Nam tăng trưởng trung bình với tốc độ 5,5% . Chính tăng trưởng đều và ổn định như vậy đã góp phần vào quá trình xoá đói , giảm nghèo rất thành công ở Việt Nam . Nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học , năng suất lúa từ 2,81 đã tăng đến 4,88 tấn / ha (tăng 1,71 lần) , ngô từ 1,42 tăng đến 3,49 tấn /ha (tăng 2,5 lần) , sắn từ 9,16 tăng đến 14,53 tấn /ha ( tăng 1,6 lần) , lạc từ 0,94 tăng đến 1,74 tấn / ha ( tăng 1,85 lần) . Đặc biệt , một số cây trồng cho năng suất bình quân cả nước tăng trên 2 lần trong thời gian gần 20 năm như : hồ tiêu , cao su, cà phê , bông, sắn . Riêng năng suất cây điều tăng hơn 2 lần trong vòng chỉ có 4 năm (2001-2004) . Kim ngạch xuất khẩu nông sản đạt 5,8 tỷ USD . (2005) . Thuỷ lợi được đầu tư tập trung, trong thập niên 1980 , diện tích

209

lúa có nước tưới tăng trung bình 2,9%/năm và trong thập niên 1990 là 4,6%/năm . Diện tích lúa có nước tưới hiện nay đạt 85% , cao nhất trong các nước Đông Nam Á. Nông nghiệp thực sự đã biểu hiện được lợi thế so sánh của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới . Việt Nam là nước xuất khẩu hồ tiêu đứng thứ nhất thế giới; xuất khẩu gạo , cà phê đứng thứ hai thế giới. Việt Nam đã từng chiếm lĩnh thị trường thế giới về thanh long, hạt điều ; có thứ hạng cao trong xuất khẩu cá basa , cá tra , tôm , cao su , chè . Nông nghiệp đã hoàn thành nhiệm vụ luôn làm vai trò chỗ dựa nền tảng cho công nghiệp và dịch vụ. Ngược lại , công nghiệp hiện vẫn chưa trở thành đầu tàu kéo nông nghiệp đi lên như quy luật chung của các nền kinh tế lành mạnh , chưa cung cấp đủ máy móc thiết bị , phân bón , thuốc bảo vệ thực vật , thuốc thú y cho nông nghiệp , với nhu cầu ngày càng cao hơn . Tổng Công ty máy động lực và máy nông nghiệp chỉ đáp ứng được 25 % nhu cầu thị trường trong nước . Đồng bằng sông Cửu Long hiện rất thiếu máy thu hoạch lúa . Công nghệ sau thu hoạch chưa phát triển . Thất thoát sau thu hoạch lúa cao : 12-14 % . Sản xuất phân đạm trong nước chỉ đáp ứng được 30 % nhu cầu , còn lại phải nhập khẩu . Dịch vụ hỗ trợ cho nông nghiệp chưa tương xứng với yêu cầu

đổi mới . Trong

những năm 1998-2003 , tỷ trọng của ngành dịch vụ tài chính tín dụng hầu như không thay đổi , các hoạt động phục vụ thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp như: vận tải , kho bãi , viễn thông…

tăng

trưởng chậm 2 % về tỷ trọng và 6 % về tốc độ . Trong chương trình đầu tư nhà nước giai đoạn 1996-2000 , giao thông nông thôn chỉ được phân bổ kinh phí rất khiêm tốn , khoảng 5 % ngân sách phục vụ cơ sở hạ tầng giao thông vận tải nói chung . Có thể nói , công nghiệp và dịch vụ Việt Nam chưa coi thị trường nông thôn là địa bàn ưu tiên phục vụ . Nông nghiệp chiếm 68 % tỷ trọng kinh tế nông thôn Việt Nam , đóng góp 79 % cơ cấu kinh tế hộ nông dân . Năng suất lao động

210

nông nghiệp rất thấp , thu nhập của hộ nông dân tăng rất chậm , dẫn đến sức mua của nông dân thấp . Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư , dân cư nông thôn chiếm 70 % dân số cả nước , nhưng chỉ chiếm 29-33 % tỷ lệ chi phí tiêu dùng xã hội trong những năm 1996-1998 . Khoảng cách kinh tế giữa nông thôn và thành thị tiếp tục dãn ra . Bình quân thu nhập hàng tháng tính theo đầu người : thành thị cao hơn nông thôn gấp 1,8 lần ( 1993) , tăng lên 2,4 lần ( 2002 ) . Sự chênh lệch giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo vẫn tăng thêm theo tỷ lệ 4,6 lần trong năm 1955 , lên 5,5 lần trong năm 1999 và 6,2 lần trong năm 2002. Có lẽ đây là thách thức lớn nhất trong công cuộc công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông nghiệp , nông thôn Việt Nam . Theo kết quả nghiên cứu của Viện Chính sách Lương thực Quốc tế (IFPRI) , trong giai đoạn 1985-1990 , tác động của khoa học công nghệ đóng góp 63 % mức tăng sản lượng lúa Việt Nam (IFPRI 2001 ) . Giai đoạn 1991-1995 , phần đóng góp này giảm còn 29,2 % và đến năm 2000 là 22,8% . Phân tích hàm sản xuất với các yếu tố có liên quan cho thấy : giai đoạn 1985-1989 , công nghệ đóng góp đến 55,5 % phần tăng sản lượng nông nghiệp ; giai đoạn 1990-1999 , mặc dù đây là giai đoạn có rất nhiều chính sách cởi mở, nhưng công nghệ chỉ góp thêm 5,4 % vào phần tăng sản lượng nông nghiệp ; có nghĩa là đầu tư cho khoa học , công nghệ đáp ứng nhu cầu sản xuất nông nghiệp chưa tương xứng . Mức đầu tư cho nông nghiệp chưa tương xứng, đầu tư đạt 5-6% ngân sách nhà nước/năm , bằng 3-6 % tổng giá trị sản xuất nông nghiệp , bằng 1-1,5 % GDP trong những năm 1992-2002 (ở Trung Quốc , Ấn Độ , Thái Lan , mức đầu tư cho nông nghiệp chiếm 16% ngân sách ; các nước Đông Nam Á: 8-9 % ngân sách trong những năm 1990-1993) . Đồng bằng sông Cửu Long là một trong 7 vùng kinh tế quan trọng , chiếm 12 % diện tích đất tự nhiên , 32 % diện tích đất nông

211

nghiệp cả nước ; nổi tiếng là châu thổ lớn và phì nhiêu vào bậc nhất không những của Việt Nam mà của cả Đông Nam Á. Đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực , thực phẩm , trái cây nhiệt đới , vùng nuôi trồng thuỷ sản lớn nhất . Đặc biệt, trong 20 năm đổi mới , sản xuất lúa gạo và nuôi trồng thuỷ sản của đồng bằng sông Cửu Long đã phát triển rất đáng kể , đóng góp quan trọng vào mục tiêu an toàn lương thực và xuất khẩu của cả nước . Như vậy , đồng bằng sông Cửu Long rất nên được xem là vùng kinh tế trọng điểm , cần có sự đầu tư hợp lý để phát huy tối đa lợi thế so sánh về sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong chặng đường sắp tới. Việc chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ở đây chưa đạt như mong muốn , bởi chúng ta chưa có giải pháp đúng về thị trường nông sản . Mặc dù bình quân lương thực /đầu người đạt trên 1.000 kg, nhưng giá trị sản xuất nông nghiệp 1 ha đạt thấp : 12,8 triệu đồng ( 1996) lên 17,2 triệu đồng ( 1999) , 20,25 triệu đồng ( 2000 ) , 27,6 triệu đồng (2003) . Năng suất lao động rất thấp , bình quân mỗi lao động đạt từ 6,95 triệu đồng/năm ( 1996) tăng lên

10,83 triệu đồng /năm

(2000) . Nếu cơ sở hạ tầng như bến cảng, kho bãi , chợ đầu mối , giao thông nông thôn , điện lực ... không phát triển nhanh để hỗ trợ tích cực cho nông nghiệp , nông thôn , thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ rất khó có thể phát huy tiềm năng, lợi thế của một châu thổ phí nhiêu bậc nhất này . Quá trình chuyển lao động ra khỏi nông nghiệp , nông thôn ở Việt Nam nói chung và ở đồng bằng sông Cửu Long nói riêng diễn ra rất chậm . Đây là hiện tượng rất không bình thường, thể hiện tiến trình phát triển công nghiệp và đô thị chưa gắn kết với phát triển nông thôn (hiện tượng này ít xảy ra ở hầu hết các nước trong khu vực) . Khả năng tạo việc làm ở lĩnh vực công nghiệp không đáng kể , chỉ thu hút 2 % nhu cầu ; dịch vụ thu hút 33 % việc làm mới , còn lại dồn chủ yếu vào lĩnh vực nông nghiệp , chiếm 50% lao động tăng thêm . Kinh tế nông thôn phải đảm đương một nhiệm vụ

212

khó khăn là tiếp tục tạo thêm việc làm cho khối lượng lao động đang tăng nhanh hàng năm để duy trì sự ổn định xã hội và môi trường cho đất nước . Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long , lúa gạo vẫn là ngành sản xuất chính , cơ cấu màu lương thực thấp ( 5-7 % diện tích gieo trồng , so với cả nước là 15 % ) , chăn nuôi chỉ đạt 10-13 % giá trị nông nghiệp (cả nước là 21 %) . Tính chất độc canh cây lúa làm cho đồng bằng sông Cửu Long rất khó khăn trong cải thiện thu nhập của nông dân , mặc dù chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ an toàn lương thực cho cả nước . Việc lấy nước mặn nuôi tôm trên đất trồng lúa đã trở thành vấn đề cần được xem xét một cách nghiêm túc về môi trường và mục tiêu phát triển bền vững . Đầu tư nước ngoài ở đồng bằng sông Cửu Long ( 1998-2003) thấp hơn Đông Nam Bộ 20 lần , thấp hơn đồng bằng sông Hồng 10 lần , thấp hơn duyên hải Nam Trung Bộ 3 lần . Dân trí của đồng bằng sông Cửu Long hay sự nghiệp giáo dục , đào tạo đây cũng rất thấp kém . Số sinh viên đại học và sau đại học chiếm khoảng 4,58% dân số trong độ tuổi 20-24 . Khu vực dịch vụ tăng trưởng rất chậm , tốc độ bình quân là 3,6%/năm , chưa đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất , đời sống nông thôn và chưa trở thành nguồn thu nhập quan trọng cho cư dân nông thôn . Kinh tế hộ nông thôn có chuyển biến nhưng tốc độ rất chậm , do tính chất thuần nông. Hiện nay , 77,4% hộ nông thôn là hộ nông nghiệp , chỉ giảm được 1,6% so với năm 1994 (công nghiệp vẫn chưa kéo nổi lao động nông thôn ra thành thị một cách hợp lý ). Thu nhập bình quân tính trên đầu người (2004 ) vào khoảng 4,32 triệu đồng/ năm . Chi tiêu bình quân tính trên đầu người/ năm xấp xỉ 3,1 triệu đồng, thấp hơn chi tiêu tính trên đầu người /năm của cả nước ( 3,23 triệu đồng ) , thấp hơn Đông Nam Bộ ( 5,37 triệu đồng ) và thấp hơn đồng bằng sông Hồng ( 3,25 triệu đồng ) . Trong tổng số chi tiêu của cá nhân , tỷ lệ chi cho giáo dục , đào

213

tạo chiếm khoảng 4,26 % ( 132 nghìn đồng/người/năm ), so với cả nước là 6,13% ( 197,8 nghìn đồng ) , đồng bằng sông Hồng là 7,32 % (238 nghìn đồng ) . Khoảng cách giữa mức tiêu dùng của dân phi nông nghiệp và dân nông nghiệp có khuynh hướng cách biệt ngày càng lớn : 2,3 lần ( 1995 ) , 3,7 lần ( 2000 ) và 2,6 lần ( 2005) . Các công trình đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn đã đem lại kết quả to lớn cho sản xuất và đời sống . Nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cho thấy , đầu tư vào đường sá nông thôn có thể đem lại mức lãi gấp 3 lần từ sản xuất nông nghiệp , đồng thời có tác dụng rõ rệt cho công tác xoá đói , giảm nghèo . Công tác cung cấp nước sạch ở nông thôn có bước tiến bộ vượt bậc . Kết quả cư dân nông thôn sử dụng nước sạch từ 7 % ( 1980) tăng lên 40% (2003) . Kinh tế hợp tác chưa phát triển khiến cho các nông hộ nhỏ bé bị chia cắt khỏi thông tin thị trường , khả năng cạnh tranh yếu , khả năng tiếp cận thị trường khoa học , công nghệ thấp , chịu nhiều thua thiệt trong kinh tế thị trường . Trong quá trình hội nhập , Việt Nam đứng trước những rủi ro do thiếu kinh nghiệm và thiếu quy hoạch có tính tổng thể , lâu dài . Nông sản có chất lượng cao hiện được trồng rải rác theo kiểu kinh tế hộ , không biểu thị rõ vùng chuyên canh để có sản phẩm hàng hoá đủ sức cạnh tranh cả về " lượng " và " chất" . Chúng ta đôi lúc hơi nặng về " thương hiệu trái ngon , nhưng ít quan tâm đến xây dựng vùng chuyên canh " để có sản phẩm hàng hoá đủ cung ứng cho thị trường . Đặc biệt , chúng ta thiếu những kế hoạch lâu dài cho chương trình cải tiến phẩm chất vốn rất đa dạng với nhiều thị hiếu khác nhau của nhiều thị trường khác nhau . Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam còn thấp , không phải chỉ do chất lượng cây giống mà còn do trình độ quản lý kém . Điều này biểu hiện rõ nhất trên sản phẩm cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay . Từ tình hình trên , chúng tôi xin đề nghị :

214

Một là, nông nghiệp Việt Nam nói chung và đồng bằng sông Cửu Long nói riêng cần chuyển hướng phát triển theo chiều sâu , trên cơ sở phát triển khoa học nông nghiệp , những tiến bộ kỹ thuật mới , nhất là lĩnh vực ứng dụng công nghệ sinh học , công nghệ thông tin trong chọn tạo giống , bảo vệ cây trồng, vật nuôi , bảo vệ môi trường sinh thái . Mục tiêu hướng đến nông nghiệp chất lượng cao với nông sản thoả mãn yêu cầu hội nhập , phục vụ nội tiêu , xuất khẩu , có sức cạnh tranh tốt , tiến đến xây dựng một nền nông nghiệp bền vững , đa dạng hoá cơ cấu ngành nghề trong nông thôn , giảm hiện tượng di dân tạo sức ép quá lớn cho thành thị . Sản xuất nông nghiệp không phải chỉ bằng kinh nghiệm của nông dân mà phải bằng kiến thức khoa học , thực hiện nội dung " trí thức hoá nông dân " với vai trò vô cùng quan trọng của công tác khuyến nông . Hai là , đồng bằng sông Cửu Long nên được xem là vùng kinh tế trọng điểm , phát huy lợi thế so sánh của châu thổ có mức phì nhiêu thuộc hạng cao trong khu vực ; tổ chức lại sản xuất phù hợp , cho phép tập trung ruộng đất theo hướng sản xuất công nghiệp , quy mô lớn đáp ứng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước ( trên thế mạnh : lúa , thuỷ sản , cây ăn quả nhiệt đới) , để công nghiệp và dịch vụ đầu tư hỗ trợ cho nó một cách tương xứng (như mô hình Hà Lan trên thế mạnh rau , hoa) . Hiệu quả kinh tế của nông sản mới không ngừng gia tăng bằng chiến lược " nông sản giá trị gia tăng " thông qua công nghệ chế biến . Đầu tư cơ sở hạ tầng cho 2/3 nguồn lực của đất nước là việc rất nên làm . Các ngành công nghiệp và dịch vụ nên xem nông thôn là địa bàn ưu tiên . Quản lý diện tích đất trồng lúa ở một quy mô nhất định để đảm bảo mục tiêu an toàn lương thực cần được xem trọng . Bên cạnh đó , chúng ta nên có chính sách giúp đỡ để nông dân vùng trồng lúa ít bị thiệt thòi hơn khi đảm đương nhiệm vụ chính trị này . Ba là, tạo đủ việc làm cho lực lượng lao động vô cùng to lớn ở

215

nông thôn là khâu đột phá quan trọng, bằng nhiều biện pháp tổng hợp như phát triển loại hình công nghiệp thu hút số lượng lao động lớn gắn với dịch vụ và du lịch , kết hợp mở rộng thị trường lao động tay nghề cao , lao động trí thức phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu , chú trọng đặc biệt công nghiệp và dịch vụ phát triển nông thôn , đáp ứng mục tiêu : " Phát triển kinh tế đi đôi với công bằng xã hội" . Bốn là, Nhà nước cần xem đầu tư cho khoa học là hướng đột phá cho giai đoạn phát triển chiều sâu . Tập trung nghiên cứu giải quyết các khâu yếu kém hiện nay : giá thành nông sản , giá thành thức ăn gia súc , giải quyết rủi ro thú y , nâng cao phẩm chất nông sản , công nghệ hạt giống , đầu tư đồng bộ và phát triển công nghệ sau thu hoạch , xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ , phục vụ , tiếp thị . Giải pháp đầu tư nên đi đôi với giải pháp tiết kiệm . Lưu ý giải pháp tiết kiệm trong dịch vụ , nó tăng nhanh do giá trị tăng thêm trong 5 năm qua là bài học kinh nghiệm (30,5% năm 2000 và 39,5 % năm 2005) . Đã đến lúc , chúng ta cần nhận thức " nông dân , nông nghiệp , nông thôn " đang trở thành vấn đề bức bách cho phát triển kinh tế , trong tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Năm là , những chính sách phục vụ cho mục tiêu phát triển đồng bằng sông Cửu Long nên tập trung vào các nội dung như sau : 1 ) Thu hút vốn đầu tư trên cơ sở huy động cao nhất các nguồn lực , trước hết là nội lực của các thành phần kinh tế và vốn đầu tư nước ngoài ; 2) Chú trọng cải thiện cái yếu nhất của đồng bằng là nhân tố con người với mặt bằng dân trí quá thấp , nên tập trung cải tiến chất lượng giáo dục hơn là số lượng ; 3) Thu hẹp chênh lệch thu nhập giữa nông dân trồng lúa với hộ phi nông nghiệp bằng giải pháp đa dạng hoá trong hệ thống nông nghiệp và những chính sách thích ứng; 4) Cải tiến và phát triển hệ thống giao thông đường bộ và phát huy thế mạnh trong giao thông đường thuỷ, với

216

ưu tiên xây dựng các bến cảng , sân bay ở một số trung tâm của vùng ; 5) Hiện đại hoá công nghệ chế biến ngang tầm trong khu vực , như lúa gạo , thuỷ sản , rau quả , thức ăn chăn nuôi . Nông nghiệp Việt Nam đang trong quá trình chuyển từ tăng trưởng theo chiều rộng sang phát triển chiều sâu , trên cơ sở khoa học , công nghệ tiếp tục phát triển nhanh . Giải quyết bài toán thu nhập thấp của nông dân chính là giải pháp phát huy khả năng tái sản xuất mở rộng với sự trợ giúp của công nghiệp và dịch vụ để nông nghiệp , nông thôn tiến hành chuyển đổi cơ cấu kinh tế , thực hiện nội dung công nghiệp hoá , hiện đại hoá như văn kiện của Đại hội X.

217

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG , NHÀ NƯỚC VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO TRONG 5 NĂM QUA ( Tham luận của Ban Tôn giáo Chính phủ )

Trong những năm gần đây , vấn đề tôn giáo và dân tộc đang thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và có thể nói là một trong những vấn đề thời sự chính trị - xã hội thu hút sự chú ý của nhiều tầng lớp dân cư trên thế giới . Do những đặc điểm về địa lý , dân cư , lịch sử , văn hoá ... Việt Nam là một quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng , tôn giáo khác nhau . Trong các tôn giáo ở Việt Nam có những tôn giáo du nhập từ bên ngoài vào và có những tôn giáo nội sinh , với số lượng gần 20 triệu tín đồ , chiếm 25 % dân số trong cả nước . Đồng bào các tôn giáo là lực lượng quần chúng quan trọng đóng góp vào sự ổn định và phát triển đất nước . Tuy nhiên , do những đặc điểm lịch sử để lại , một bộ phận tín đồ , chức sắc trong tôn giáo đã bị các thế lực xấu tìm cách lợi dụng để chống phá công cuộc xây dựng đất nước , gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc ; những phần tử cực đoan ở ngoài nước cấu kết với bọn phản động trong nước lợi dụng vấn đề tôn giáo trong chiêu bài " tự do, dân chủ , nhân quyền " như là con bài nhằm gây sức ép với ta trong thảo luận về các vấn đề kinh tế , chính trị , ngoại giao để can thiệp vào nước ta . Với chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo , ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng

218

hoà ( 1946 ) và trong suốt quá trình phát triển của cách mạng nước ta từ đó cho đến nay , quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo và tự do không tín ngưỡng , tôn giáo của nhân dân . Quán triệt những quan điểm cơ bản về chính sách tôn giáo trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn công tác tôn giáo và tiếp tục khẳng định chính sách tôn giáo nhất quán của Đảng ta , Nghị quyết số 25 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể hoá một bước quan trọng về chính sách tôn giáo và về chỉ đạo thực tiễn đối với công tác tôn giáo của Đảng , đặt ra những nhiệm vụ , giải pháp để thực hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo chính đáng và hợp pháp của công dân với phương châm : "Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc , phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc , thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc , vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ , văn minh " . Công tác tôn giáo phải lấy yếu tố đồng thuận , lấy điểm tương đồng về mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước làm nền tảng kết nối đoàn kết đồng bào , chức sắc các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc , nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc cùng phấn đấu xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp . Từ đó làm cho tín đồ , chức sắc các tôn giáo yên tâm sống đạo , giữ đạo hài hoà trong lòng dân tộc , tin tưởng vào chính sách tôn giáo của Đảng , ngày một gắn bó mật thiết hơn với chế độ , phấn khởi cùng toàn dân thị đua xây dựng xã hội mới . Đó cũng chính là cơ sở xã hội quan trọng góp phần đấu tranh có hiệu quả đối với âm mưu lợi dụng tôn giáo hòng chống phá ta của các thế lực thù địch , đồng thời xác định rõ nội dung , trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công

219

tác tôn giáo và những nhiệm vụ cụ thể của công tác tôn giáo . Có thể khái quát như sau : Một là , Đảng ta xác định tín ngưỡng, tôn giáo "đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta , đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc" ; các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật . Hai là, Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc ; đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau , đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo . Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng , tôn giáo , giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống tổ tiên , tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân . Ba là , mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự tôn giáo hợp pháp . Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ , được hoạt động tôn giáo , mở trường đào tạo chức sắc , nhà tu hành , xuất bản kinh sách ; xây dựng , giữ gìn , sửa chữa , tu bổ cơ sở thờ tự của mình . Việc theo đạo và truyền đạo cũng như các hoạt động tôn giáo khác phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật . Về công tác tôn giáo , chính sách tôn giáo của Đảng cũng đã xác định rõ : Một là, nội dung, cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng . Mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh là điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung của dân tộc . Thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội , an ninh , quốc phòng , bảo đảm lợi ích của nhân dân nói chung , trong đó có đồng bào tôn giáo . Hai là, Đảng xác định , làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo . Tổ chức bộ máy

220

và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo có trách nhiệm trực tiếp cần được củng cố và kiện toàn . Ba là, tăng cường nghiên cứu cơ bản , tổng kết thực tiễn , góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách trước mắt và lâu dài đối với tôn giáo . Trong thời gian qua , việc xây dựng các văn bản pháp luật về lĩnh vực tôn giáo đã luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội , Chính phủ , sự phối hợp giữa các bộ , ngành Trung ương , các tỉnh , thành phố , sự tham gia đóng góp của các nhà khoa học và của chức sắc các tôn giáo . Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng , tôn giáo và có hiệu lực thi hành từ ngày 15-11-2004 . Đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay về tín ngưỡng ,

tôn giáo . Đồng thời Chính phủ ban hành Nghị định

22/2005/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng , tôn giáo; Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 01 / 2005 /CT-TTg về một số công tác đối với đạo Tin lành . Các văn bản quy phạm pháp luật đó đã cụ thể hoá chính sách tôn giáo của Đảng , xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các cá nhân , tổ chức tôn giáo , trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các tổ chức , cá nhân trong hoạt động tôn giáo , tôn trọng và bảo đảm nguyên tắc những việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo do các tôn giáo tự giải quyết theo hiến chương , điều lệ của các tôn giáo đã được Nhà nước công nhận . Thực tiễn đã chứng minh rằng , việc thực hiện chính sách tôn giáo trong thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng, khẳng định tính đúng đắn của đường lối , chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trên các công tác chủ yếu sau :

· Nhà nước đã xây dựng và tổ chức triển khai các đề án phát triển kinh tế - xã hội , bảo đảm an ninh , quốc phòng cho các vùng , miền trong đó có những vùng , miền có vấn đề tôn giáo phức tạp

221

như Tây Nguyên , Tây Bắc , bước đầu tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân , trong đó có đồng bào các tôn giáo , tạo được niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước , cũng như chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta .

Sinh hoạt tôn giáo của chức sắc , tín đồ được quan tâm và tạo điều kiện của các cấp chính quyền ; việc bày tỏ đức tin của tín đồ , lễ nghi , lễ hội tôn giáo được diễn ra bình thường, không có sự phân biệt giữa các tổ chức tôn giáo ; việc phong chức , phong phẩm , thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo cũng như việc xuất cảnh của chức sắc tôn giáo được giải quyết nhanh chóng , thuận tiện ; hoạt động đào tạo , bồi dưỡng chức sắc , nhà tu hành trong các tôn giáo được duy trì và mở rộng , đáp ứng nhu cầu của các tổ chức , cá nhân tôn giáo ; việc in ấn kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan đến tôn giáo được thực hiện thường xuyên , đáp ứng đầy đủ nhu cầu của các tổ chức tôn giáo ; các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu , hợp tác với các tổ chức tôn giáo nước ngoài ; việc xây dựng , tu bổ, sửa chữa cơ sở thờ tự tôn giáo được quan tâm tạo điều kiện giải quyết nhanh theo quy định của pháp luật . Theo thống kê chưa đầy đủ trong 3 năm từ 2003-2005 số cơ sở thờ tự được xây mới là 832 ; tu bổ , sửa chữa là 1.051 ; phong chức , bổ nhiệm và thuyên chuyển chức sắc là 3.621 vị ; số chức sắc các tôn giáo đang được đào tạo tại các trường lớp tôn giáo là 14.446 người ; số tốt nghiệp ra trường là 12.380 người ; Nhà xuất bản Tôn giáo đã cấp giấy phép xuất bản gần 1.000 đầu sách với hàng triệu bản in ; giáo sĩ xuất cảnh là 1.413 người ; một số vùng , miền có vấn đề tôn giáo phức tạp như Tây Nguyên , các tỉnh miền núi phía Bắc , Tây Nam Bộ đã được đầu tư nghiên cứu xây dựng và triển khai kế hoạch nhằm bình thường hoá sinh hoạt của tín đồ , bước đầu đã tạo được sự thống nhất của cấp uỷ , chính quyền các địa phương về hướng giải quyết nhu cầu sinh hoạt của tín đồ . Đối với các tôn giáo tuy chưa được công nhận về tổ chức , nhưng tín đồ vẫn được duy trì

222

sinh hoạt tôn giáo , bày tỏ đức tin . Nhà nước đã có chủ trương và kế hoạch khảo sát , đánh giá để cho đăng ký hoạt động và từng bước công nhận về tổ chức theo quy định của pháp luật . Những kết quả trên khẳng định một thực tế là sinh hoạt tín ngưỡng , tôn giáo của tín đồ , chức sắc và tổ chức tôn giáo trong những năm qua , nhất là từ khi có Nghị quyết 25/NQ - TW , tiếp tục được các cấp , các ngành tạo điều kiện và bảo đảm đầy đủ , thuận lợi theo chính sách tôn giáo của Đảng và các quy định của pháp luật , được đông đảo chức sắc , tín đồ tôn giáo trong và ngoài nước , được nhiều Chính phủ , tổ chức quốc tế và bạn bè trên thế giới đánh giá cao. Cùng với các kết quả trên , phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào các tôn giáo tiếp tục được các tỉnh , thành phố quan tâm chỉ đạo . Một số tỉnh , thành phố đã tổ chức tốt các cuộc hội thảo , các hội nghị chuyên đề về việc tôn giáo tham gia xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư ; về phát huy giá trị đạo đức , văn hoá tôn giáo trong đời sống văn hoá cộng đồng ; các tổ chức , chức sắc tôn giáo đã động viên tín đồ tham gia các hoạt động từ thiện , nhân đạo trên tinh thần "thương người như thể thương thân " , đã đóng góp được hàng trăm tỷ đồng hỗ trợ cho các gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn .

· Các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện mở rộng hoạt động quan hệ đối ngoại với các tổ chức tôn giáo trong khu vực và quốc tế , tham gia các cuộc hội thảo quốc tế về tôn giáo , các sinh hoạt tôn giáo ở nước ngoài cũng như mời các tổ chức , cá nhân tôn giáo nước ngoài vào thăm và tổ chức một số hoạt động tôn giáo , qua đó tạo được sự hiểu biết lẫn nhau và cũng chứng minh về sự ưu việt của chế độ ta , tính đúng đắn về chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta với thế giới và bạn bè quốc tế , góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước .

- Sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài sinh sống và làm việc

223

tại Việt Nam được các địa phương quan tâm tạo điều kiện một cách thông thoáng về địa điểm sinh hoạt , người hướng dẫn việc đạo giúp cho người nước ngoài có đạo thêm yên tâm sinh sống và làm việc ở Việt Nam . Đi đôi với việc thực hiện các chính sách tôn giáo , công tác củng cố tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo nói chung và công tác quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng đã được sự quan tâm của các cấp , các ngành Trung ương tới cơ sở . Chính phủ đã ban hành Nghị định 91 /NĐ - CP về chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn , cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ , Nghị định 22/2004/NĐ - CP về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo của uỷ ban nhân dân các cấp . Các tỉnh , thành phố đã quan tâm chỉ đạo và củng cố tổ chức bộ máy , tăng cường cán bộ làm công tác tôn giáo ở các cấp chính quyền , các đoàn thể chính trị , xã hội ; từng bước đáp ứng yêu cầu của công tác tôn giáo . Kết quả việc thực hiện chính sách tôn giáo trong nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là rất cơ bản , đã khẳng định chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn , động viên được đồng bào các tôn giáo đoàn kết trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc , tham gia tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đó cũng là điều kiện rất cơ bản để chúng ta có thể đẩy lùi mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo của các thế lực thù địch , thiếu thiện chí nhằm cản trở công cuộc đổi mới của nhân dân ta . Tuy nhiên , việc thực hiện chính sách tôn giáo cũng còn một số tồn tại cần được nhìn nhận để khắc phục trong thời gian tới : · Nhận thức về quan điểm , chính sách tôn giáo của Đảng trong một bộ phận lãnh đạo cấp uỷ , chính quyền các cấp còn chưa có sự đồng nhất . Việc thực hiện chủ trương , chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước có lúc , có nơi còn chưa nghiêm túc , gây bức xúc không đáng có trong tín đồ , chức sắc các tôn giáo , tạo nên sơ hở để các thế lực xấu lợi dụng kích động , lôi kéo tín đồ chống

224

chính quyền và vu cáo Nhà nước ta vi phạm tự do tôn giáo , đàn áp tôn giáo . · - Việc cụ thể hoá chính sách tôn giáo của Đảng trên một số lĩnh vực cụ thể liên quan đến nhiều bộ, ngành ở Trung ương như hướng dẫn các tổ chức tôn giáo , cá nhân tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hoá các hoạt động y tế , văn hoá , giáo dục ; về vấn đề nhà đất sử dụng vào mục đích tôn giáo và liên quan đến tôn giáo, ... chậm được xây dựng và ban hành . · - Việc củng cố tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo thuộc uỷ ban nhân dân các cấp ở một số địa phương tiến hành chậm , không đồng bộ ; đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo nhìn chung vẫn bất cập về chuyên môn , nghiệp vụ so với yêu cầu của công tác tôn giáo , nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở xã , phường. - Một số nơi công tác tôn giáo chưa được đặt ở một vị trí tương xứng , phù hợp trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung . Chính vì vậy , việc đầu tư cho công tác tôn giáo nói chung thiếu tính chủ động và tính lâu dài . Để tiếp tục thực hiện tốt chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, ngoài những chủ trương đã có , chúng ta cần thực hiện tốt một số yêu cầu sau : Một là, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc cho các cấp uỷ đảng , chính quyền , Mặt trận Tổ quốc , các đoàn thể chính trị - xã hội , đảng viên , cán bộ về các quan điểm , chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tôn giáo ; xác định rõ trách nhiệm cụ thể của cấp uỷ , chính quyền , cán bộ các cấp , các ngành nhất là cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước trong việc thực hiện nghiêm túc chính sách , pháp luật đối với hoạt động tôn giáo . Có hình thức khen thưởng , động viên kịp thời những tổ chức , cá nhân thực hiện tốt chính sách tôn giáo , nhưng đồng thời cũng có hình thức kỷ luật đối với những tổ chức , cá nhân vi phạm chính sách tôn giáo .

225

Hai là, cần đặt tôn giáo là một khâu trong lĩnh vực văn hoá xã hội , công tác tôn giáo là công tác thuộc lĩnh vực quản lý xã hội . Trên cơ sở đó , có chính sách đầu tư cho công tác tôn giáo như là đầu tư cho phát triển gắn với chiến lược đầu tư phát triển của đất nước . Ba là, tiếp tục quan tâm đầy đủ hơn việc kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo từ Trung ương đến cơ sở , chú trọng công tác cán bộ và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tôn giáo vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng , vừa có hiểu biết sâu về lĩnh vực tôn giáo ; tăng cường công tác nghiên cứu cơ bản về tôn giáo và thực tiễn công tác tôn giáo ở Việt Nam ; tiếp tục hoàn thiện chính sách , pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo . Bốn là, có chính sách cụ thể nhằm khai thác , sử dụng tốt nhất những giá trị văn hoá , đạo đức và tiềm lực của các tôn giáo để góp phần phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo mục tiêu , nhiệm vụ mà Đại hội X của Đảng xác định .

226

THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH ĐOÀN KẾT ĐỒNG BÀO CÁC TÔN GIÁO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI ( Tham luận của đồng chí Hồ Xuân Mãn , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế, đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế )

Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước . Kế thừa và phát huy truyền thống đó , ngay từ những ngày đầu mới thành lập , Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân , đặc biệt là đoàn kết tôn giáo . Tư tưởng đó đã trở thành chiến lược đại đoàn kết của Đảng và là nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Tư tưởng đó đã được thể hiện trong Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên - Huế qua các thời kỳ cách mạng , nhất là trong sự nghiệp đổi mới quê hương, đất nước hiện nay . Thừa Thiên - Huế được xem là trung tâm tôn giáo của khu vực miền Trung . Toàn tỉnh có 4 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận : Phật giáo , Công giáo , Tin lành và Cao đài . Phật giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông và cùng với những tín ngưỡng dân gian truyền thống , đã trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng , chi phối đời sống tâm linh của nhân dân . Nơi đây là chiếc nôi của phong trào " Chấn hưng Phật giáo " là " Quê hương "

227

của các hội như Gia đình Phật tử , An Nam Phật học, Thanh niên đức dục, Gia đình Phật hóa phổ , Gia đình hướng thiện . Hiện nay , tín đồ Phật giáo chiếm gần 60 % dân số của tỉnh . Có 1.400 chức sắc , nhà tu hành ; 454 ngôi chùa , tịnh xá , tịnh thất . Công giáo tuy du nhập vào Thừa Thiên - Huế muộn hơn , số lượng tín đồ ít hơn , nhưng lại có vị trí rất lớn đối với giáo hội công giáo Việt Nam . Toà Tổng giám mục Huế là trung tâm Công giáo của các giáo tỉnh miền Trung và Tây Nguyên ; là nơi sản sinh và đào tạo nhiều thế hệ và chức sắc cao cấp của giáo hội Công giáo . Hiện nay , toàn tỉnh có khoảng 55 ngàn tín đồ , 115 chức sắc , 531 tu sĩ , 104 nhà thờ , nhà nguyện . Đạo Tin lành : có 375 tín đồ , 2 chức sắc , 2 nhà thờ . Đạo Cao đài: có khoảng 100 tín đồ , 1 cơ sở thờ tự . Do điều kiện lịch sử và tính đặc thù văn hoá vùng đất kinh thành , tín ngưỡng , tôn giáo ở Thừa Thiên - Huế đã và đang giữ một vai trò quan trọng , chi phối và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của đa số nhân dân , góp phần gìn giữ và khơi nguồn những phẩm chất cao quý của con người Việt Nam , đó là tình thương yêu con người , tình yêu quê hương đất nước và ý thức độc lập dân tộc . Đây cũng là cơ sở của những điểm tương đồng của khối đại đoàn kết toàn dân , góp phần làm nên thắng lợi của Cách mạng Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm do Đảng ta lãnh đạo . Điểm nổi bật là trong phong trào Phật giáo miền Nam chống Mỹ - nguỵ , nhất là những năm 1963-1966 , Thừa Thiên - Huế là nơi xuất phát , đồng thời cũng là nơi có lực lượng đông đảo đồng bào Phật tử tham gia đấu tranh , tạo thành phong trào mạnh mẽ , góp phần cùng với lực lượng cách mạng tạo nên phong trào chống Mỹ nguỵ sôi nổi ở đô thị . Nhiều nhà chùa , cơ sở thờ tự đã trở thành cơ sở cách mạng . Nhiều chức sắc , tu sĩ , tín đồ Phật tử tham gia cách mạng trở thành những nhân sĩ , trí thức tiêu biểu , có tác động tích cực đến quần chúng nhân dân .

228

Từ sau ngày quê hương được giải phóng đến nay , đông đảo chức sắc , nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo đã tích cực tham gia công cuộc xây dựng quê hương mới . Nhiều chức sắc Phật giáo và Công giáo trở thành đại biểu Quốc hội , Hội đồng nhân dân , Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp . Cùng với các hoạt động trên , các tổ chức tôn giáo còn có vai trò tích cực trong việc vận động , hướng dẫn quần chúng tín đồ tham gia các chương trình mục tiêu kinh tế , xã hội ở địa phương ; xây dựng đời sống văn hoá , phát huy tinh thần và những giá trị đạo đức phù hợp với truyền thống của dân tộc và chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước như : phong trào xoá đói giảm nghèo ; chăm sóc sức khoẻ nhân dân , chăm sóc trẻ em mồ côi , người tàn tật , người già không nơi nương tựa ... Hàng năm , Giáo hội địa phương chi phí cho công tác từ thiện từ 3,5 - 4 tỷ đồng . Riêng sau cơn lũ lịch sử (năm 1999) , Giáo hội đã cứu trợ đồng bào nạn nhân đến 16 tỷ đồng . Các dòng tu , nhà thờ giáo xứ của Công giáo cũng đã tích cực phối hợp với chính quyền địa phương ở các phường , xã thực hiện các công trình phục vụ dân sinh như : điện , đường, trường , trạm có giá trị vật chất hàng tỷ đồng . Những việc làm đó đã góp phần cùng với Đảng và Nhà nước ta chăm lo đời sống tinh thần , vật chất cho nhân dân ; đồng thời tạo được mối đoàn kết , gắn bó , hoà hợp giữa những người có tôn giáo với người không có tôn giáo , giữa người thuộc tôn giáo này với người thuộc tôn giáo khác ... mang ý nghĩa xây dựng thiết thực của đạo đối với đời , là sợi dây nối kết chính quyền , mặt trận , các đoàn thể quần chúng với các tổ chức tôn giáo .

Có thể nói rằng , tình hình tôn giáo tại Thừa Thiên - Huế trong thời kỳ đổi mới đã có những chuyển biến tích cực , hoạt động của các tổ chức tôn giáo ngày càng đi vào nề nếp , tuân thủ pháp luật . Quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với chính quyền các cấp ngày càng tốt hơn , gần gũi và hợp tác chặt chẽ . Phần lớn tin đồ , giáo

229

dân phấn khởi trước những thành tựu của đất nước và tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam ; tích cực xây dựng cuộc sống hài hoà "tốt đời - đẹp đạo" , chấp hành tốt mọi chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước . Tuy nhiên , do nhiều nguyên nhân khác nhau , hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại Thừa Thiên - Huế phát sinh nhiều vấn đề phức tạp . Tình trạng khiếu kiện , tranh chấp đất đai , đòi lại các cơ sở đã hiến tặng cho Nhà nước xảy ra ngày càng phức tạp . Trên địa bàn tỉnh đã xuất hiện một số phần tử cực đoan , lợi dụng tôn giáo cấu kết , móc nối với các phần tử phản động lưu vong ở nước ngoài tiến hành những hoạt động tuyên truyền , xuyên tạc , vu khống chính sách tự do tôn giáo , khoét sâu mâu thuẫn về tư tưởng giữa những người có đạo và những người không có đạo ; kích động và gây mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân để lôi kéo , giành giật đồng bào tôn giáo về phía chúng . Các tổ chức bất hợp pháp vẫn tiếp tục hoạt động, với mức độ chống đối ngày càng gay gắt hơn , vượt ra khỏi hành vi vi phạm pháp luật mà thuộc về ý thức hệ chống đối sâu sắc như Nguyễn Văn Lý , Thích Thiện Hạnh , ... Trải qua các giai đoạn cách mạng , Đảng ta luôn luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt . Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị khoá VI đã xác định : Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài . Tín ngưỡng , tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân . Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới . Nghị quyết Trung ương 7 ( lần 2 ) khoá IX tiếp tục khẳng định các quan điểm và chính sách tôn giáo : Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân , đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Đồng bào các tôn giáo là bộ phận cấu thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc . Và gần đây , Pháp lệnh tín ngưỡng , tôn giáo được ban hành nhằm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo

230

của công dân ; tăng cường hiệu lực , hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo . Quán triệt những chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo , những năm qua , Tỉnh uỷ Thừa Thiên - Huế đã thường xuyên quan tâm , chỉ đạo các cấp uỷ , chính quyền cơ sở và các đoàn thể phối hợp chặt chẽ trong việc vận động đồng bào có đạo thực hiện chính sách tôn giáo và quản lý các hoạt động tôn giáo . Có hàng trăm tu viện , tổ đình , chùa làng, nhà thờ , nhà nguyện dòng tu được sửa chữa , xây dựng mới , trong đó có cả những cơ sở thờ tự mới được xây dựng tại các vùng có đồng bào đi xây dựng quê hương . Hàng trăm giáo sĩ, tu sĩ được phép đi nước ngoài để dự hội thảo , học tập , tham quan , chữa bệnh ... Hàng trăm đầu sách tôn giáo được in ấn , xuất bản . Các sinh hoạt tôn giáo bình thường được chính quyền hướng dẫn , giúp đỡ , tạo điều kiện . Những lễ hội lớn của các tôn giáo như lễ Phật đản , lễ Vu lan , lễ hội Quan thế âm , lễ Giáng sinh , Phục sinh , lễ hội La Vang được tổ chức với quy mô lớn , thu hút hàng vạn tín đồ tham dự ... Ngoài ra , các hoạt động xã hội từ thiện của Giáo hội cũng được chính quyền các cấp quan tâm . Trên địa bàn tỉnh hiện có hàng trăm lớp mẫu giáo , nhà trẻ do các tổ chức tôn giáo mở với hàng ngàn cháu tham gia học tập có nề nếp . Các phòng khám từ thiện của Phật giáo , Công giáo tổ chức khám chữa bệnh cho hàng vạn lượt người trong và ngoài tỉnh . Các tổ chức tôn giáo ở cơ sở còn phối hợp với chính quyền địa phương tham gia công tác xã hội , xây dựng các công trình điện , đường , trường, trạm và nhiều công trình phục vụ dân sinh khác . Có thể khẳng định rằng , những thành tựu nổi bật trong việc thực hiện chính sách đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới của tỉnh Thừa Thiên - Huế được thể hiện rõ nét trên các mặt sau :

- Cấp uỷ , chính quyền , các đoàn thể chính trị - xã hội , các địa

231

phương quan tâm nhiều đến công tác tôn giáo ; quan tâm lãnh đạo , chỉ đạo , hướng dẫn , giúp đỡ , tạo điều kiện thực hiện các hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật .

· Chức sắc và tín đồ các tôn giáo ngày càng hiểu rõ hơn về chủ trương chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước và ngày càng phấn khởi , tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng và sự điều hành , quản lý của Nhà nước . · Khoảng cách giữa người có đạo và người không có đạo từng bước được xoá dần . Cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền , Mặt trận Tổ quốc và các chức sắc tôn giáo đã có sự gần gũi, trách nhiệm hợp tác ngày càng tốt hơn .

· Các phần tử cực đoan , chống đối , lợi dụng tôn giáo đã bị nhân dân , tín đồ , chức sắc các tôn giáo phản đối; một số bị cô lập và bị pháp luật nghiêm trị. Từ kết quả thực hiện chính sách đoàn kết tôn giáo thời gian qua , có thể rút ra một số vấn đề nhằm tiếp tục củng cố đoàn kết tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới như sau : Thứ nhất, nhất quán tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo, quyền sinh hoạt tôn giáo theo đúng pháp luật. Đó chính là 1 tôn trọng và bảo đảm quyền được theo hay không theo một hình thức tín ngưỡng , tôn giáo nào đã được xã hội và luật pháp thừa nhận , quyền được sinh hoạt tôn giáo một cách bình thường , bình đẳng , trong khuôn khổ của luật pháp . Hiện nay , xuất hiện nhiều tà giáo mượn danh tín ngưỡng , tôn giáo , lợi dụng niềm tin của nhân dân vì những mục đích phi tôn giáo . Nhiều tổ chức phản cách mạng âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước , thực hiện các mục tiêu chính trị đen tối . Vì vậy , quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo cần được hiểu , tôn trọng , thực hiện trong khuôn khổ của luật pháp . Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng có nghĩa là phải tôn trọng niềm tin tôn giáo của quần chúng . Mọi sự xúc phạm đến niềm tin tôn giáo của quần chúng đều là nguy cơ

232

tạo nên sự hiềm khích , đố kỵ , gây chia rẽ , mất đoàn kết .

Thứ hai, chống mọi âm mưu lợi dụng tín ngưỡng , tôn giáo để chia rẽ đồng bào. Thực tế cho thấy , các thế lực phản cách mạng luôn tìm cách chia rẽ những người có tôn giáo và những người không tôn giáo , giữa những người theo tôn giáo khác nhau nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta . Muốn đoàn kết tôn giáo , bên cạnh việc tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng , tôn giáo , cần phân biệt được nhu cầu tín ngưỡng , tôn giáo chân chính của quần chúng với âm mưu lợi dụng tôn giáo và kiên quyết chống mọi âm mưu lợi dụng tín ngưỡng , tôn giáo . Hướng tới mục tiêu trên , một mặt phải phổ biến , tuyên truyền đường lối , chính sách của Đảng và Nhà nước , giáo dục đồng bào có đạo nêu cao tinh thần yêu nước , cảnh giác , vạch trần việc lợi dụng tôn giáo của các thế lực phản động . Mặt khác , kiên quyết đấu tranh và xử lý thích đáng những kẻ lợi dụng tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân , chia rẽ dân tộc , xâm hại đến khối đoàn kết toàn dân . Thứ ba, tuyên truyền , giáo dục và tạo điều kiện để những người có tín ngưỡng , tôn giáo hay không có tín ngưỡng , tôn giáo phấn đấu vì lợi ích chung là độc lập dân tộc , thống nhất Tổ quốc, dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng , dân chủ và văn minh . Trên cơ sở không ngừng phát triển kinh tế , văn hoá xã hội , nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân , tạo cho nhân dân một cơ sở xã hội hiện thực để họ yên tâm , tin tưởng vào xã hội mới , chấp nhận sự khác biệt , khai thác điểm tương đồng , thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ thu hút mọi người dân phấn đấu vì mục tiêu chung .

Giúp cho người dân nhận thức hạnh phúc , tự do tín

ngưỡng, tôn giáo chỉ có được khi lợi ích chung ấy được thực hiện . Sau đây là một số ý kiến nhằm góp phần đạt được những mục tiêu đoàn kết các tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới , từ thực tiễn tình hình công tác tôn giáo ở địa phương :

233

- Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa việc đầu tư các dự án , chương trình mục tiêu quốc gia đối với những vùng có đông đồng bào theo đạo để tạo sự chuyển biến sâu sắc về kinh tế - xã hội . - Nhà nước cần nghiên cứu để ban hành đầy đủ các văn bản pháp quy về tôn giáo để điều chỉnh các hoạt động tôn giáo , nhất là các hoạt động như : sửa chữa , xây dựng cơ sở thờ tự , giao đất để làm cơ sở thờ tự, hoạt động từ thiện xã hội , tranh chấp khiếu kiện ... Tiếp tục nghiên cứu để ban hành Luật tín ngưỡng , tôn giáo . · Tăng cường và phát triển thông tin đối ngoại qua Internet, qua kênh VTV4 để đồng bào ta ở nước ngoài biết rõ những chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng , tôn giáo , thông qua kênh này để phản ánh những thành tựu về kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá và những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo cho kiều bào ta ở nước ngoài .

Quan tâm công tác quy hoạch , đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo , trong đó chú trọng đào tạo những cán bộ làm công tác tôn giáo chuyên trách ; đồng thời nghiên cứu để có chế độ chính sách , đặc biệt là chế độ đặc thù cho đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tôn giáo .

Đoàn kết tôn giáo đã được khẳng định là một nội dung quan trọng không thể thiếu để tạo nên sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân . Bởi vậy , những quan điểm , chính sách của Đảng và Nhà nước ta về công tác tôn giáo cần được phổ biến , tuyên truyền và hiện thực hoá trong cuộc sống để củng cố , tăng cường đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay .

234

THỰC HIỆN TỐT CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG , CƠ SỞ PHÁT HUY KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TRONG VIỆC ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG TOÀN QUỐC LẦN THỨ X VÀO CUỘC SỐNG, XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

( Tham luận của đồng chí Tráng A Pao , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội, đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai)

Cộng đồng các dân tộc ở nước ta có 54 dân tộc , trong đó dân tộc thiểu số là 53 dân tộc với số dân gần 11 triệu người , chiếm 13% dân số cả nước , cư trú trên địa bàn rộng lớn , có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị , kinh tế - xã hội , quốc phòng - an ninh . Các dân tộc thiểu số trình độ phát triển không đồng đều giữa các dân tộc , giữa các vùng dân tộc trong cả nước , cơ sở hạ tầng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn , chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều vấn đề bất cập , văn hoá bị mai một ... Trong những năm qua , Đảng , Nhà nước đã có nhiều chủ trương và chính sách đúng đắn nhằm hỗ trợ sự phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên nguyên tắc cơ bản là : bình đẳng , đoàn kết , tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển . Những nguyên tắc cơ bản đó được Đảng , Nhà nước thể hiện

235

một cách nhất quán trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và cụ thể hoá bằng những chính sách phù hợp với yêu cầu , nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng của nước ta . Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , những nguyên tắc cơ bản đó của Đảng lại càng được thể hiện rõ hơn , Đảng, Nhà nước đã cụ thể hoá bằng hàng loạt những chính sách cụ thể nhằm bảo đảm cho nhân dân các dân tộc thực sự thực hiện được sự bình đẳng về mọi mặt , những chính sách đó là : Chính sách 173 , 168 , 186 , 120, 1763 , 135 , 134 và chính sách cử tuyển đào tạo con em các dân tộc , nhiều chính sách đã thực sự đi vào cuộc sống của đồng bào dân tộc , được đồng bào dân tộc thiểu số đồng tình ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng .

Những kết quả , thành tựu đã đạt được trong những năm qua là Nhà nước ta đã đầu tư hơn 20.000 tỷ đồng để xây dựng kết cấu hạ tầng , đầu tư hơn 10.000 tỷ đồng cho 2.410 xã đặc biệt khó khăn ở vùng sâu , vùng xa miền núi dân tộc thiểu số , đã hoàn thành xây dựng trên 20.311 công trình các loại gồm : giao thông ; thuỷ lợi ; trường học ; trạm xá xã ; trụ sở xã ; bưu điện văn hoá xã ; điện thắp sáng cho dân , các đài thu phát pa - ra - pôn phục vụ cho dân nghe , nhìn ... Đến nay rất nhiều công trình đã phát huy được hiệu quả . 97,42 % số xã đã có đường ô tô đến trung tâm xã , 98% điện lưới đến huyện , 84 % số xã đã có điện lưới , 64 % số hộ dân được sử dụng điện (tỷ lệ này các tỉnh miền núi phía Bắc ít hơn) , 100 % số xã có trạm y tế , 100 % số xã có trường tiểu học xây kiên cố , 76% xã có bưu điện văn hoá xã , đã có trên 20 chương trình mục tiêu quốc gia được triển khai thực hiện trên địa bàn dân tộc thiểu số , chiếm 44 % tổng số vốn của các chương trình mục tiêu cả nước , đã có hơn 20.000 con em dân tộc thiểu số được cử tuyển đào tạo tại các trường trung học chuyên nghiệp , cao đẳng và đại học trong nước . Đời sống vật chất , tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số đã được cải thiện một bước quan trọng, những chính sách của Đảng, Nhà nước đã tạo điều

236

kiện để đồng bào các dân tộc đặc biệt khó khăn ở vùng sâu , vùng xa từng bước vươn lên hoà nhập với sự phát triển của cộng đồng cả nước . Tại diễn đàn này , tôi thay mặt đồng bào các dân tộc trong cả nước , xin cảm ơn Chính phủ , cảm ơn các cấp uỷ đảng , chính quyền các cấp đã quan tâm đến vùng đồng bào dân tộc thiểu số . Song do điều kiện tự nhiên , xã hội ở vùng miền núi dân tộc và điểm xuất phát rất thấp nên kinh tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi vẫn trong tình trạng chậm phát triển , chậm chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá , tiếp cận với cơ chế thị trường còn rất lúng túng, sản phẩm hàng hoá chất lượng thấp , sức cạnh tranh không cao , tình trạng du canh , du cư, di cư tự do vẫn đang bức xúc ở nhiều nơi , kết cấu hạ tầng vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn thiếu và còn nhiều khó khăn , dân số ngày càng tăng lên , môi trường sinh thái bị suy giảm , rừng bị phá , đất bị bạc màu , tỷ lệ đói nghèo còn ở mức cao so với bình quân chung của cả nước (36% số hộ , trong khi đó cả nước là 23 % ) thậm chí có nơi , có vùng tỷ lệ đói nghèo còn ở mức cao (62 % ) , khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng , giữa các dân tộc ngày càng lớn . Chất lượng giáo dục , đào tạo chưa đáp ứng được mục tiêu nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi và dân tộc thiểu số , tỷ lệ lao động được đào tạo nghề ở vùng đồng bào dân tộc còn thấp . Hệ thống y tế còn nhiều bất cập , mức hưởng thụ văn hoá của đồng bào còn thấp , hệ thống chính trị ở cơ sở , vùng dân tộc miền núi còn yếu , công tác cán bộ chậm đổi mới , nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ hiện nay , tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở còn nhiều mặt yếu kém . Miền núi vùng dân tộc thiểu số vẫn còn tiềm ẩn nhiều mặt yếu tố gây mất ổn định chính trị và an toàn xã hội , việc truyền đạo trái pháp luật phát triển không bình thường ở nhiều nơi , trái với thuần phong mỹ tục của đồng bào dân tộc .

237

Tất cả những vấn đề trên đây có nhiều nguyên nhân . Về mặt nguyên nhân khách quan là do địa hình phức tạp , khó khăn vốn có của vùng miền núi dân tộc thiểu số , của các thế lực thù địch không từ bỏ những âm mưu , thủ đoạn thâm độc trong việc lợi dụng vấn đề dân tộc , tôn giáo để phá hoại công cuộc xây dựng đất nước ta . Nguyên nhân chủ quan là do sự nhận thức của các cấp uỷ , chính quyền về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ , chưa sâu sắc , việc tổ chức thực hiện thiếu cụ thể , đồng bộ , còn không ít cán bộ đảng viên vẫn còn mang nặng tư tưởng ỷ lại , bao cấp của Nhà nước , đội ngũ trí thức của dân tộc thiểu số vừa thiếu , vừa yếu nhiều mặt . Để khắc phục những yếu kém trên đây , góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, từ nay đến năm 2010 tôi xin kiến nghị mấy vấn đề sau đây : 1. Phải quán triệt nghiêm túc , sâu sắc các chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đã có , đẩy mạnh đầu tư cho phát triển kinh tế . xã hội ; xoá đói giảm nghèo , nâng cao mức sống của đồng bào dân tộc thiểu số ; giải quyết cơ bản những bức xúc về đất sản xuất , đất ở , nhà ở , lương thực , nước sinh hoạt cho đồng bào nghèo và đặc biệt khó khăn . Tập trung đầu tư vốn nhiều hơn xây dựng kết cấu hạ tầng nhất là khu vực biên giới , vùng sâu , vùng xa , vùng đặc biệt khó khăn ; giải quyết cơ bản tình trạng tranh chấp đất đai ở vùng đồng bào dân tộc , nhất là các trọng điểm không để tạo điểm nóng về trật tự an toàn xã hội , quy hoạch sắp xếp lại dân cư nơi cần thiết , tạo sự ổn định , không còn du canh du cư và di cư tự do . 2. Cần phải tiến hành ngay quy hoạch và đào tạo cán bộ theo từng vùng , từng dân tộc cụ thể , bổ sung , luân chuyển cán bộ có năng lực , phẩm chất tốt , tâm huyết với đồng bào dân tộc đến nơi công tác ở vùng dân tộc thiểu số miền núi , nhất là vùng trọng điểm về chính trị , an ninh quốc phòng , đồng thời Nhà nước có chính sách thoả đáng đối với cán bộ công tác ở vùng đồng bào dân tộc đặc

238

biệt khó khăn , chính sách sử dụng những người có uy tín trong từng dân tộc , từng vùng dân tộc , xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở thôn bản, phum , sóc có trình độ năng lực , có phẩm chất đạo đức tốt , nắm vững đường lối , chính sách của Đảng, Nhà nước , biết tổ chức , hướng dẫn , lãnh đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả các chính sách của Đảng, Nhà nước ở ngay từng thôn bản , phum , sóc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số . 3. Các ngành , các cấp cần phải rà soát cụ thể lại các chính sách , kịp thời bổ sung những chính sách , sát hợp đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số , tổ chức thực hiện đồng bộ , chặt chẽ từ Trung ương đến cơ sở , đảm bảo các loại vốn đầu tư thực sự có hiệu quả , tạo điều kiện cho đồng bào thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn, thoát khỏi đói nghèo một cách bền vững , vươn lên cùng hoà nhập chung với tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . 4. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giáo dục - đào tạo , hoàn thành phổ cập trung học cơ sở và trung học phổ thông cho đồng bào dân tộc thiểu số , phát triển mạnh mạng lưới trường dạy nghề cho đồng bào , tổ chức các trường mẫu giáo công lập ở vùng đồng bào dân tộc . Chăm sóc sức khoẻ đồng bào , giảm thiểu các bệnh truyền nhiễm , giảm thiểu tình trạng suy dinh dưỡng của trẻ em vùng đồng bào dân tộc , tăng cường hoạt động văn hoá thông tin , đưa sách , báo về đến thôn bản , đưa truyền hình về từng gia đình đồng bào , hướng dẫn đồng bào, phát huy bản sắc văn hoá truyền thống tốt đẹp của nhân dân các dân tộc , tạo ra sự phong phú về văn hoá của các cộng đồng trong cả nước , nghiên cứu tăng thêm thời lượng phát thanh và bằng nhiều thứ tiếng các dân tộc ở từng vùng phù hợp với điều kiện của đồng bào , góp phần nâng cao trình độ dân trí ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số . 5. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở , xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân , an ninh nhân dân , chủ động phát hiện , ngăn

239

chặn có hiệu quả tình trạng truyền đạo trái pháp luật và lợi dụng vấn đề dân tộc , tôn giáo , tự do tín ngưỡng để phá hoại sự đoàn kết dân tộc , chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta , không để xảy ra " điểm nóng " về trật tự xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số , không để kẻ xấu lợi dụng sơ hở của ta để kích động đồng bào gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc . Các ngành , các cấp và các cán bộ , đảng viên nhận thức sâu sắc và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước chính là cơ sở vững chắc để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

240

CHĂM LO PHÁT TRIỂN KINH TẾ, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT , TINH THẦN TRONG ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHƠME ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng )

Sóc Trăng là tỉnh thuộc khu vực miền Tây Nam Bộ , có tổng dân số là 1.274.000 người , với ba dân tộc chính là Kinh , Khơme và Hoa ; trong đó , dân tộc Khơme có 367.000 người , chiếm tỷ lệ 28,85 % . Các huyện có tỷ lệ người Khơme cao là : huyện Vĩnh Châu , chiếm trên 52 % , kế đến là huyện Mỹ Xuyên , chiếm trên 36% và huyện Mỹ Tú , chiếm trên 31 % . Đồng bào dân tộc Khơme đa số theo đạo Phật (Phật giáo Nam Tông) . Toàn tỉnh có 92 chùa , 36 Salatel với 1.699 vị sư sãi , trong đó có 10 hoà thượng và 9 thượng toạ . Đồng bào Khơme có truyền thống yêu nước , trung thành với Đảng, đoàn kết , gắn bó với các dân tộc trong tỉnh . Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ và quan điểm của Đảng về đại đoàn kết và bình đẳng giữa các dân tộc anh em , những năm qua , Đảng bộ và nhân dân tỉnh Sóc Trăng luôn luôn quan tâm thực hiện tốt chính sách đoàn kết dân tộc và công tác dân tộc ; tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội , phát triển sản xuất ; đẩy mạnh công tác xoá đói , giảm nghèo , nâng cao mức sống của nhân dân ; quan tâm phát triển các mặt văn hoá , xã hội vùng đồng bào Khơme , từ đó đã tạo được những chuyển biến khá rõ nét :

241

Qua thực hiện Chương trình 135 , tổng vốn đầu tư toàn tỉnh cho các xã vùng đồng bào Khơme trên 284 tỷ đồng ( vốn Trung ương 136 tỷ đồng) , đã triển khai xây dựng được 463 công trình trên các lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi , điện , trường học , trạm y tế ... Đối với Dự án xây dựng trung tâm cụm xã , đã xây dựng được 74 công trình , với tổng số vốn đầu tư 38 tỷ đồng . Thực hiện Đề án hỗ trợ xây dựng nhà tình thương cho hộ nghèo , đến cuối năm 2005 , toàn tỉnh đã xây dựng và bàn giao 11.120 căn nhà tình thương cho hộ dân tộc Khơme , kinh phí thực hiện trên 55 tỷ đồng. Tỉnh cũng đã tập trung triển khai các chính sách hỗ trợ sản xuất , đời sống ; thực hiện trợ giá , trợ cước , v.v. cho đồng bào Khơme , với kinh phí trên 30 tỷ đồng ; phối hợp , lồng ghép các chương trình , dự án tài trợ của các nước , tổ chức phi chính phủ và ngân sách của tỉnh đầu tư hàng năm hàng chục tỉ đồng cho sự nghiệp giáo dục , y tế , văn hoá trong vùng đồng bào dân tộc Khơme . Trong 5 năm (2001-2005) , các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn tỉnh đã phát vay 514 tỷ đồng ; trong đó , Ngân hàng Chính sách xã hội đã phát vay 34 tỷ đồng cho đồng bào Khơme . Nhìn chung , tất cả các nguồn vốn đầu tư vào vùng dân tộc Khơme đều hoàn thành đúng tiến độ và mang lại hiệu quả cao . Đến nay , 100 % xã vùng đồng bào Khơme có đường xe môtô liên xã , 69% xã có đường xe ôtô đi đến ; 66,26% hộ dân Khơme được dùng nước sạch , 66,39 % hộ có điện sinh hoạt ; tỷ lệ hộ Khơme nghèo từ 42,92 % năm 2001 xuống còn 25% năm 2005 ( theo tiêu chí cũ) . Song song đó , công tác giáo dục trong vùng đồng bào dân tộc Khơme tiếp tục được đầu tư mở rộng . Trong năm học 2005-2006 , toàn tỉnh có 227 trường trong vùng đồng bào Khơme , với 74.688 học sinh ; có 5 trường dân tộc nội trú ( 1 trường cấp tỉnh và 4 trường cấp huyện ) , với 1.137 học sinh . Các trường có đông học sinh người Khơme đều được học hai thứ chữ Việt - Khơme . Các chế độ chính sách đối với học sinh người dân tộc Khơme được thực hiện tốt như:

242

miễn học phí , cấp phát miễn phí sách giáo khoa , tập viết , thực hiện chế độ cử tuyển , v.v .. Công tác chăm sóc sức khoẻ đồng bào dân tộc Khơme được quan tâm thực hiện . Đến nay , toàn tỉnh 100 % xã có đông đồng bào dân tộc Khơme đều có trạm y tế ; trong đó , có 33 % trạm đạt chuẩn y tế quốc gia , có 83 % trạm có bác sĩ . Toàn tỉnh có 224 y , bác sĩ là người dân tộc Khơme ; 100 % hộ nghèo được cấp bảo hiểm y tế . Tỉnh đã tập trung đầu tư xây dựng các thiết chế văn hoá trong vùng đồng bào dân tộc Khơme . Tiếp tục duy trì , phát huy hiệu quả và đẩy mạnh việc xây dựng tụ điểm văn hoá trong các chùa Khơme . Toàn tỉnh hiện có 2 di tích lịch sử trong tổng số 6 di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia của tỉnh đã được công nhận . Tỉnh có Nhà Bảo tàng Khơme , lưu giữ nhiều hiện vật văn hoá có giá trị . Toàn tỉnh có 1 đoàn nghệ thuật Khơme chuyên nghiệp của tỉnh và 4 đoàn nghệ thuật tập thể , tư nhân của đồng bào Khơme và nhiều đội , nhóm văn nghệ quần chúng thường xuyên phục vụ tốt nhu cầu của bà con Khơme . Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh duy trì và tăng thời lượng phát sóng chương trình tiếng Khơme mỗi ngày 2 buổi với thời lượng là 60 phút /buổi đối với phát thanh và 30 phút/buổi đối với truyền hình . Đài truyền thanh các huyện có đông đồng bào Khơme hàng ngày đều có phát sóng bằng tiếng Khơme . Tỉnh đã xuất bản và phát hành tờ Báo Sóc Trăng Khơme ngữ tuần /kỳ , tạp chí Khơme quý/kỳ . Từ đó, đã góp phần tích cực nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và đồng bào , sư sãi Khơme . Văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Khơme được tôn trọng, giữ gìn và phát huy . Các lễ hội được tổ chức với tinh thần vui tươi , đoàn kết , tiết kiệm và an toàn ; phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá " được đông đảo đồng bào dân tộc Khơme tích cực hưởng ứng và mang lại những kết quả thiết thực . Tình hình an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội trong vùng

243

đồng bào dân tộc Khơme cơ bản ổn định ; quyền dân chủ được phát huy . Công tác giải quyết khiếu nại tố cáo được các cấp , các ngành quan tâm giải quyết nên số vụ việc khiếu kiện nói chung cũng như khiếu kiện trong đồng bào dân tộc Khơme ngày càng giảm . Hệ thống chính trị ở vùng đồng bào dân tộc Khơme được củng cố. Công tác phát triển đảng viên , đoàn viên , hội viên người dân tộc Khơme được quan tâm tốt hơn . Hoạt động của Ban Dân tộc các cấp từng bước đi vào nề nếp , phát huy tốt vai trò tham mưu cho cấp uỷ và chính quyền trong triển khai thực hiện công tác dân tộc ở địa phương . Việc tu hành của sư sãi và đồng bào Khơme được tôn trọng . Nhiều chùa , sư sãi có thành tích trong kháng chiến được Nhà nước khen thưởng . Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước của tỉnh làm tốt việc giáo dục đồng bào Phật tử chấp hành thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước , nhất là các chính sách về tôn giáo , dân tộc . Những kết quả đạt được nêu trên khẳng định chủ trương , chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với công tác dân tộc trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân , thể hiện sự vận dụng có hiệu quả của các cấp uỷ đảng, chính quyền , đoàn thể và sự nỗ lực to lớn của nhân dân nói chung , đồng bào dân tộc Khơme trong tỉnh nói riêng . Mặc dù có bước cải thiện đáng kể , nhưng nhìn chung , tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào Khơme vẫn còn nhiều khó khăn . Tỷ lệ hộ nghèo các năm qua tuy có giảm , nhưng vẫn còn ở mức cao và kết quả thực hiện xoá nghèo chưa thực sự vững chắc . Việc nâng cao trình độ dân trí trong vùng đồng bào dân tộc Khơme còn chậm . Tình trạng sang bán , cầm cố ruộng đất trong đồng bào Khơme tiếp tục diễn ra ; phân hoá giàu nghèo trong cộng đồng dân cư và trong đồng bào Khơme có chiều hướng gia tăng . Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng dân tộc Khơme còn yếu . Công tác quy hoạch , đào

244

tạo , bồi dưỡng cán bộ dự bị kế thừa người dân tộc Khơme mặc dù được quan tâm thực hiện , nhưng kết quả còn hạn chế, nhiều nơi còn hụt hẫng . Quán triệt sâu sắc các quan điểm lớn của Đảng ta phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm , xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt , văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội , vận dụng các quan điểm nói trên vào điều kiện cụ thể của tỉnh , trong thời gian tới , để tiếp tục thực hiện tốt chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác dân tộc , Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng sẽ tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản , vừa cấp bách vừa thường xuyên lâu dài đối với vùng đồng bào dân tộc Khơme như sau : 1. Tiếp tục quán triệt chủ trương , chính sách của Đảng , Nhà nước về công tác dân tộc ; đặc biệt là Chỉ thị số 68 - CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VI về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khơme và Nghị quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác dân tộc nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cán bộ và nhân dân , nhất là trong sư sãi và đồng bào dân tộc Khơme . Trên cơ sở đó , đẩy mạnh phát triển kinh tế , văn hoá - xã hội trong đồng bào Khơme trong tỉnh . 2. Tập trung chăm lo phát triển kinh tế trong vùng đồng bào dân tộc Khơme . Huy động các nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng , đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn , vùng đồng bào dân tộc Khơme . Chú trọng đầu tư hệ thống thuỷ lợi , giao thông , điện ; đẩy mạnh công tác khuyến nông , khuyến ngư, cải tạo giống cây trồng , vật nuôi ; khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn , nhằm tạo việc làm thu hút lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp . Tiếp tục đầu tư xây dựng các công trình thuộc Dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và Dự án xây dựng các Trung tâm cụm xã theo chủ trương của Chính phủ . Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đô thị và nông thôn tỉnh Sóc Trăng đến năm 2010 và năm 2020 để góp phần phục vụ cho chuyển dịch cơ

245

cấu sản xuất nông nghiệp , phát triển nông thôn , vùng đồng bào dân tộc Khơme . 3. Tạo bước chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực văn hoá - xã hội ; nâng cao đời sống vật chất , tinh thần trong đồng bào dân tộc Khome . Tập trung củng cố , duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, triển khai nhanh , có hiệu quả công tác phổ cập giáo dục trung học cơ sở . Tăng cường đào tạo giáo viên là người dân tộc Khơme . Tiếp tục đầu tư nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống trường dân tộc nội trú . Thực hiện tốt công tác cử tuyển . Đẩy mạnh đầu tư xây dựng Trường dạy nghề của tỉnh và hình thành mạng lưới Trung tâm dạy nghề các huyện để đào tạo nghề cho nông dân , từng bước đa dạng hoá ngành nghề sản xuất ở nông thôn , nhất là vùng đồng bào dân tộc Khơme . Triển khai thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân , tiếp tục củng cố mạng lưới y tế cơ sở vùng đồng bào dân tộc Khơme . Đẩy mạnh các hoạt động y tế dự phòng , giáo dục , vận động đồng bào ăn ở vệ sinh và bảo vệ môi trường . Đa dạng hoá các hình thức thông tin tuyên truyền , thực hiện tốt việc phục vụ phim ảnh và các ấn phẩm văn hoá bằng song ngữ , tạo điều kiện để các đoàn nghệ thuật Khơme hoạt động có chất lượng . Tăng cường đầu tư các thiết chế văn hoá ; đẩy mạnh phong trào " toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá " , giữ gìn , phát huy bản sắc văn hoá , truyền thống tốt đẹp của dân tộc Khơme , nhất là duy trì các hoạt động lễ hội truyền thống của đồng bào dân tộc . Đẩy mạnh hơn nữa công tác xoá đói giảm nghèo , giải quyết việc làm , triển khai thực hiện có hiệu quả Dự án xoá đói giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khơme . Tiếp tục công tác giáo dục , vận động làm chuyển biến nhận thức về mục tiêu xoá đói giảm

246

nghèo , để người nghèo , hộ nghèo , xã nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo . Tăng cường giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong đồng bào Khơme . Đặc biệt là vạch trần những âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch , làm cho đồng bào dân tộc không nghe , không tin và không làm theo sự xúi giục của bọn chúng . Đẩy mạnh thực hiện chương trình phòng chống tội phạm , giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc

Khome . 4. Thường xuyên , kiên trì và đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đào tạo , bồi dưỡng, sử dụng cán bộ người dân tộc Khơme bảo đảm sự kế thừa liên tục của đội ngũ cán bộ dân tộc và giữ vững sự lãnh đạo của Đảng trong vùng đồng bào dân tộc Khơme . Tiếp tục thực hiện tốt việc học chữ Khơme cho cán bộ , công chức công tác vùng đồng bào dân tộc Khơme để có thể nghe , nói được tiếng và hiểu phong tục , tập quán của đồng bào dân tộc . Tăng cường phát huy vai trò của Ban Dân tộc các cấp và Hội Đoàn kết sư sãi yêu nước . Từ thực tế tình hình của địa phương, để tạo điều kiện làm tốt hơn công tác dân tộc vùng đồng bào Khơme trong thời gian tới , bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của tỉnh , cần có sự quan tâm chỉ đạo , hỗ trợ, giúp đỡ của Trung ương . Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng xin kiến nghị với Đảng, Nhà nước những vấn đề như sau : 1. Đề nghị Trung ương quan tâm chỉ đạo triển khai nhanh , có hiệu quả các công trình dự án theo Nghị quyết số 21 - NQ/TW của Bộ Chính trị , Quyết định số 173 , 134 của Thủ tướng Chính phủ , nhằm giúp cho các tỉnh trong khu vực , trong đó có tỉnh Sóc Trăng, có điều kiện phát triển kinh tế , nâng cao đời sống nhân dân nói chung và đồng bào dân tộc Khơme nói riêng . 2. Đề nghị các bộ , ngành Trung ương quan tâm việc in và phát hành phim ảnh , sách bằng tiếng và chữ Khơme để vừa bảo đảm

247

nội dung vận động, tuyên truyền , giáo dục vừa phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hoá của đồng bào Khơme . Đồng thời sớm có tài liệu tuyên truyền về vấn đề lịch sử vùng đất Tây Nam Bộ để các tỉnh trong khu vực có cơ sở phản bác các luận điệu tuyên truyền , xuyên tạc của bọn phản động và các thế lực thù địch . 3. Đề nghị Trung ương xem xét có chính sách giáo dục nội trú

cụ thể đối với đồng bào dân tộc Khơme . Trong đó , cần mở thêm các lớp phổ thông trung học ở các trường dân tộc nội trú cấp huyện để mở rộng diện học sinh dân tộc được theo học .

248

TĂNG CƯỜNG ĐOÀN KẾT CÁC DÂN TỘC ĐỂ THỰC HIỆN THẮNG LỢI SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ , HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC , XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc )

Đoàn kết là truyền thống vô cùng quý báu của dân tộc ta , trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước . Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và nâng truyền thống quý báu đó của dân tộc lên một tầm cao mới , coi đó là tư tưởng , chiến lược của cách mạng Việt Nam . Bác luôn nhấn mạnh : " Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết ; thành công , thành công, đại thành công " . Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân , Người dặn : " Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu , xây dựng một nước Việt Nam hoà bình , thống nhất , độc lập , dân chủ và giàu mạnh , và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới" . Quán triệt tư tưởng của Bác Hồ , trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam , Đảng ta đã kiên trì những nguyên tắc về đại đoàn kết các dân tộc ; đồng thời đã vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người cho phù hợp với thời đại . Tại Đại hội IX , Đảng ta tiếp tục khẳng định : "Đại đoàn kết là đường lối chiến lược, là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân là trách nhiệm của hệ thống chính trị và toàn xã hội" . Hội nghị Trung ương 7 khoá IX xác định :

249

"Mục tiêu chung là củng cố , tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước , xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa " . Thực hiện chủ trương của Đảng, Đắc Lắc đã tập trung lãnh đạo , chỉ đạo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc , xác định đại đoàn kết dân tộc là vấn đề đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam nói chung, đối với Tây Nguyên và Đắc Lắc nói riêng .

Đắc Lắc là tỉnh có vị trí chiến lược của Tây Nguyên và của cả nước , diện tích tự nhiên hơn 13 ngàn km , dân số trên 1,7 triệu người , với 44 dân tộc anh em cùng sinh sống . Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 31 % dân số . Bên cạnh những thuận lợi cơ bản , Đắc Lắc cũng gặp không ít khó khăn do địa bàn rộng , địa hình phức tạp , liên tục bị thiên tai , trình độ lực lượng sản xuất còn thấp , đời sống của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số , đồng bào kinh tế mới còn nhiều khó khăn . Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu "diễn biến hoà bình ” , bạo loạn lật đổ, chúng triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc , tôn giáo , kích động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc , gây mất ổn định an ninh chính trị trên địa bàn Đắc Lắc nói riêng và Tây Nguyên nói chung . Những khó khăn trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc . Được sự quan tâm lãnh đạo , chỉ đạo kịp thời của Trung ương Đảng và Chính phủ , Đảng bộ , quân , dân các dân tộc Đắc Lắc đã kiên trì phấn đấu , khắc phục khó khăn , thường xuyên tổ chức các phong trào hành động cách mạng của quần chúng , qua đó củng cố , phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc , góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá , xây dựng và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng của nhân dân ta .

250

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX , Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đã thu được nhiều kết quả quan trọng : nền kinh tế của tỉnh liên tục phát triển , tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 8,05% ; cơ cấu kinh tế , cơ cấu lao động , cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tích cực . Nông nghiệp đã cơ bản chuyển sang sản xuất hàng hoá ; công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp , thương mại - dịch vụ đã có bước phát triển khá nhanh , phát huy được lợi thế của địa phương. Thu ngân sách đạt và vượt kế hoạch đề ra ; bình quân hàng năm tăng thu 14,63 % . Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển , hoạt động có hiệu quả . Văn hoá , xã hội có tiến bộ , trình độ dân trí , đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên , tỷ lệ hộ nghèo từ 27 % năm 2000 , xuống còn 10 % năm 2005 ( theo tiêu chí cũ) . Công tác quốc phòng - an ninh được tăng cường , trật tự an toàn xã hội được giữ vững . Hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở thường xuyên được củng cố , kiện toàn cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới . Để đạt được những kết quả trên , Đắc Lắc đã tập trung làm tốt công tác chính trị , tư tưởng ; tuyên truyền , giáo dục nhân dân về truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc và thành quả cách mạng to lớn mà Đảng và Bác Hồ đã đem lại cho nhân dân , đặc biệt là thành tựu đạt được qua 20 năm đổi mới đất nước , ở ngay trên buôn , làng quê hương Đắc Lắc . Đồng thời , nói rõ âm mưu , thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp , xuyên tạc của các thế lực thù địch , để đồng bào hiểu được bản chất thâm độc của kẻ thù , không mơ hồ địch - ta , không nghe , không làm theo lời bọn phản động ; củng cố niềm tin vào Đảng và chế độ , từ đó thống nhất tư tưởng , ý chí và hành động cách mạng . Phê phán những người nhẹ dạ , cả tin , nghe theo lời kẻ xấu , làm mất ổn định ở nông thôn , không yên tâm sản xuất , dẫn đến đời sống khó khăn . Tỉnh uỷ đã lãnh đạo xây dựng chương trình hành động cụ the thực hiện việc giải quyết đất ở , đất sản xuất , nhà ở , nước sinh hoạt

251

cho đồng bào dân tộc thiểu số , cho người nghèo trong tỉnh . Đến nay đã giải quyết được trên 50 % số hộ thiếu đất sản xuất , 80% số hộ có nhu cầu về nhà ở và nước sinh hoạt . Đối với những vùng có khó khăn về đất sản xuất , một số doanh nghiệp cà phê , cao su, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp đã đưa lao động là người đồng bào dân tộc thiểu số vào làm công nhân tạo thu nhập ổn định , cải thiện đời sống . Do được tạo điều kiện về đất sản xuất , nhà ở , vốn , hướng dẫn kỹ thuật , đại bộ phận đồng bào đã yên tâm sản xuất , tỷ lệ hộ nghèo đã giảm rõ rệt , một số hộ đã vươn lên làm giàu chính đáng . Các cấp , các ngành của tỉnh đã quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng : hệ thống đường giao thông , lưới điện , thuỷ lợi phát triển nhanh . 100 % xã có đường ôtô đến trung tâm , 82 % hộ gia đình được dùng điện , 60 % tỉnh lộ được nhựa hoá , 25 % đường giao thông nông thôn được cứng hoá , một số khu công nghiệp đã hình thành . Hệ thống trường học , trạm xá ở cơ sở được nâng cấp , nơi sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số đã được xây dựng khang trang , làm cho bộ mặt nông thôn không ngừng khởi sắc . Thực hiện chủ trương của tỉnh về kết nghĩa với các buôn đồng bào dân tộc , có 948 cơ quan , đơn vị của tỉnh , huyện kết nghĩa với 528/528 buôn , thôn ; tổ chức , hướng dẫn cho đồng bào đẩy mạnh sản xuất , ổn định đời sống và tăng cường sự đoàn kết , gắn bó quân dân ; gắn bó giữa cán bộ , đảng viên , công nhân viên chức với đồng bào các dân tộc . Cùng với phát triển kinh tế, Đắc Lắc luôn coi trọng và giữ gìn , phát huy bản sắc văn hoá dân tộc , coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội , tập trung chỉ đạo phát triển giáo dục , y tế , văn hoá , phát thanh , truyền hình , đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần ngày càng cao của nhân dân . Không gian văn hoá cồng chiêng , di sản văn hoá phi vật thể , kiệt tác của nhân loại vừa được quốc tế công nhận , có phần đóng góp của đồng bào các dân tộc Đắc Lắc , các lễ hội truyền thống được duy trì và phát triển , tỉ lệ học sinh dân

252

tộc đến trường tăng nhanh , năm học 2005-2006 chiếm 31,4 % tổng số học sinh toàn tỉnh ; 97 % xã có trạm y tế , 80 % số xã có bác sĩ , 100 % thôn , buôn có nhân viên y tế ; đã phủ sóng phát thanh truyền hình trên toàn tỉnh . Khoảng cách chênh lệch về kinh tế giữa các gia đình , các cộng đồng dân cư đã dần được thu hẹp , tình đoàn kết và sự bình đẳng giữa các dân tộc được củng cố và tăng cường. Thực tế đã chứng minh : chỉ có phát triển bình đẳng về kinh tế mới củng cố khối đoàn kết vững chắc , đúng như Bác Hồ đã dạy : " Đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân tộc và quyền lợi cơ bản của toàn dân ” . Về công tác dân tộc , công tác tôn giáo , Đắc Lắc đã quan tâm chỉ đạo các ngành , các cấp thực hiện tốt chủ trương , chính sách của Đảng , Nhà nước , tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của mọi công dân , người có đạo được tự do sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật ; cương quyết đấu tranh , vạch mặt bọn lợi dụng tôn giáo , hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc . Để đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp đoàn kết dân tộc , Đảng bộ Đắc Lắc luôn coi trọng việc củng cố , kiện toàn hệ thống chính trị vững mạnh , tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 , Trung ương 6 (lần 2 ) khoá VIII và các hướng dẫn của Trung ương , xây dựng các nghị quyết chuyên đề về tăng cường sự lãnh đạo của chi bộ đảng ở buôn , thôn , về công tác phát triển đảng viên , công tác đào tạo , bồi dưỡng và sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số ... Do quyết tâm chỉ đạo cụ thể từng việc , đến nay 68,3 % tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch , vững mạnh , trong đó 45,4 % xã , phường , thị trấn đạt trong sạch , vững mạnh ; 96 % thôn , buôn đồng bào dân tộc thiểu số có tổ đảng, chi bộ đảng . Mỗi năm toàn tỉnh phát triển được 1.900 đảng viên mới . Sinh viên là người dân tộc thiểu số ra trường cơ bản được bố trí công tác phù hợp . Cán bộ là người dân

253

tộc thiểu số chiếm 11,2 % so với tổng số cán bộ toàn tỉnh . Tuy tỉ lệ cán bộ dân tộc còn thấp , chưa đạt yêu cầu về số lượng nhưng đội ngũ cán bộ này đã thực sự làm nòng cốt trong các phong trào hành động cách mạng ở địa phương, được quần chúng tín nhiệm . Có được kết quả quan trọng , cơ bản trên , trước hết là nhờ sự chỉ đạo chặt chẽ , kịp thời của Trung ương Đảng, Chính phủ , Ban Chỉ đạo Tây Nguyên , sự phối hợp của các bộ , ban , ngành Trung ương , sự giúp đỡ , động viên , chia sẻ của đồng bào các tỉnh Tây Nguyên và cả nước . Đồng thời Đảng bộ Đắc Lắc đã quán triệt sâu sắc các chỉ thị , nghị quyết của Trung ương, đề ra chương trình hành động phù hợp với thực tế địa phương, kiên trì khắc phục khó khăn , sáng tạo trong tổ chức thực hiện , đưa nghị quyết đi vào thực tiễn trong cuộc sống . Với tinh thần tự phê bình và phê bình , tại Đại hội của Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV vừa qua , chúng tôi đã nghiêm túc kiểm điểm về những yếu kém còn tồn tại đó là : Chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm , sản xuất công nghiệp chưa phát triển ; nông nghiệp lệ thuộc nhiều vào tự nhiên , thương mại - dịch vụ và du lịch phát triển chậm , chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh . Việc phát triển , mở rộng quan hệ sản xuất chưa gắn với trình độ của lực lượng sản xuất , còn có sự chênh lệch lớn về kinh tế , đời sống xã hội giữa các cộng đồng dân cư . Do đó, các thế lực phản động đã triệt để lợi dụng , kích động gây mất ổn định chính trị ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số . Hệ thống chính trị ở cơ sở tuy đã được kiện toàn , củng cố nhưng còn có mặt yếu kém , chưa phát huy được vai trò lãnh đạo , chỉ đạo , hướng dẫn tổ chức hoạt động của quần chúng , nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số . Công tác quy hoạch , đào tạo , bồi dưỡng , bố trí , sắp xếp đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ đặt ra .

254

Nhằm tiếp tục tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn các tỉnh và cả nước , tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau : 1. Cần phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị , tổ chức đa dạng, linh hoạt , phong phú , đổi mới nội dung , hình thức , biện pháp thông tin , tuyên truyền, giáo dục để cho cán bộ , đảng viên , nhân dân thấy rõ truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc , đặc biệt là thành tựu sau 20 năm đổi mới đất nước , nhằm củng cố vững chắc lòng tin tuyệt đối vào Đảng , vào chế độ . Không mơ hồ, mất cảnh giác , chủ động đấu tranh và tự đề kháng với mọi âm mưu , thủ đoạn lừa phỉnh , xuyên tạc của kẻ thù ; giữ vững sự ổn định chính trị , lấy ổn định chính trị làm điểm tựa vững chắc phát triển kinh tế , văn hoá , xã hội . 2. Phát huy sức mạnh nội lực của địa phương , các thành phần kinh tế, các cơ quan , đơn vị , cộng đồng dân cư và từng hộ gia đình đẩy mạnh sản xuất thực hành tiết kiệm , đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông , thủy điện , công trình công cộng , đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi để phát triển sản xuất . Đề nghị Trung ương , Chính phủ có quy hoạch , ưu tiên đầu tư để các tỉnh miền núi , vùng đồng bào dân tộc sớm trở thành vùng có cơ sở vật chất , kỹ thuật hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển của toàn vùng và cả nước . 3. Đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần , gắn chặt với nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất , nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số . Để đồng bào có điều kiện tổ chức sản xuất hàng hoá , phải tập trung giải quyết một cách cơ bản đất ở , đất sản xuất , tạo điều kiện về nhà ở , nước sinh hoạt và thực hiện tốt các chính sách của Đảng , Nhà nước đối với đồng bào dân tộc thiểu số . 4. Tập trung củng cố , xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh , nòng cốt là nâng cao năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu của tổ chức

255

cơ sở đảng và đảng viên . Đề ra giải pháp cụ thể đổi mới nội dung, hình thức , phương pháp lãnh đạo của cả hệ thống chính trị . Đề nghị Trung ương nghiên cứu , sửa đổi những bất hợp lý hiện nay về tổ chức bộ máy , về biên chế, chính sách , công tác cán bộ theo hướng tất cả cho cơ sở , vì cơ sở . 5. Tiếp tục thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở , đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính , giải quyết khiếu nại , tố cáo của công dân . Phát huy vai trò của các đội công tác vận động quần chúng, duy trì có hiệu quả hoạt động kết nghĩa của các cơ quan , đơn vị với buôn , thôn đồng bào dân tộc thiểu số . Nâng cao vai trò , năng lực , chất lượng hoạt động của Mặt trận , các đoàn thể nhân dân . Thực hiện tốt hương ước thôn , buôn , tổ dân phố ; phát triển sâu rộng phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư , gắn với xây dựng thôn , buôn văn hoá , gia đình văn hoá . Vấn đề đoàn kết các dân tộc vừa là vấn đề chiến lược cơ bản , lâu dài , vừa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của cả nước nói chung , Tây Nguyên và Đắc Lắc nói riêng . Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng , với truyền thống đoàn kết , cần cù , sáng tạo của nhân dân các dân tộc anh em , với sự quan tâm chỉ đạo của Trung ương Đảng , Chính phủ , Ban Chỉ đạo Tây Nguyên , sự giúp đỡ của các bộ , ban , ngành , Đắc Lắc sẽ phát triển ở nhịp độ mới nhanh và bền vững, góp phần cùng với nhân dân cả nước xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa , tất cả vì mục tiêu : "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ, văn minh " .

256

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NHIỆM VỤ QUÂN SỰ , QUỐC PHÒNG TRONG NHIỆM KỲ TỚI ( Tham luận của đồng chí Phùng Quang Thanh , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Thượng tướng , Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam , Thứ trưởng Bộ Quốc phòng , đại biểu Đảng bộ Quân đội )

Có thể khẳng định rằng , cùng với quá trình đổi mới đất nước , 20 năm qua , về quân sự , quốc phòng chúng ta đã mạnh dạn đổi mới và thu được những thành tựu quan trọng , nổi bật là : Về tư duy và nhận thức : Đã phát triển lý luận về bảo vệ Tổ quốc , nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về mục tiêu và nhiệm vụ ; nhận thức và xử lý đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ; về tính tổng hợp của sức mạnh và lực lượng quốc phòng; về sự kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh vũ trang và phi vũ trang ; đổi mới về nhận thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân , đặc biệt là xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân , khu vực phòng thủ , thế bố trí các lực lượng chiến lược và xây dựng khu kinh tế quốc phòng ; bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với hoạt động quốc phòng . Về thực tiễn : Đảng ta mạnh dạn chấn chỉnh tổ chức quân đội , giảm quân số , tăng cường lực lượng dự bị động viên , rút lực lượng chủ lực trên biên giới phía Bắc về phía sau , hoàn thành nghĩa vụ quốc tế rút quân ở Lào và Campuchia về nước . Phát hiện sớm tình

257

hình , kịp thời điều chỉnh bố trí chiến lược , tăng cường xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và tổ chức phòng thủ các trọng điểm , đặc biệt là phía Tây . Triển khai xây dựng các khu kinh tế quốc phòng trên các địa bàn chiến lược trọng yếu ở biên giới ; góp phần quan trọng củng cố quốc phòng - an ninh , gắn với phát triển kinh tế - xã hội và đã xử lý kịp thời các tình huống . Tiếp tục chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang cả về chính trị , tư tưởng và tổ chức , bảo đảm cho quân đội vững vàng trước tình hình biến động phức tạp , tăng cường được sức mạnh tổng hợp , bảo vệ Đảng, Nhà nước , giữ vững độc lập chủ quyền , thống nhất , toàn vẹn lãnh thổ của đất nước , giữ vững môi trường hoà bình , ổn định để xây dựng phát triển kinh tế - xã hội . Đặc biệt trong nhiệm kỳ qua , về quốc phòng , quân sự được tăng cường một bước đáng kể . Nền quốc phòng toàn dân , thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên từng địa bàn tỉnh , thành phố , nhất là trên các địa bàn chiến lược tiếp tục được củng cố . Tiềm lực quốc phòng , an ninh trong khu vực phòng thủ tỉnh , thành phố được tăng cường . Trước những biến động phức tạp của tình hình , Quân đội luôn luôn đoàn kết , nhất trí , kiên định vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng , Nhà nước và nhân dân , khắc phục khó khăn , thử thách, thực hiện tốt chức năng là đội quân chiến đấu , đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất . Chất lượng tổng hợp , trình độ chính quy , sức mạnh chiến đấu và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội từng bước được nâng lên . Trong thời gian tới , bên cạnh hoà bình , hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn , tình hình có thể diễn biến phức tạp hơn ; các thế lực thù địch chống phá chế độ ta một cách quyết liệt hơn bằng " diễn biến hoà bình " , bạo loạn lật đổ, thúc đẩy " tự diễn biến " kết hợp với răn đe quân sự . Ta cần phải hết sức cảnh giác , kể cả với cái gọi là cuộc " cách mạng sắc màu " đang được chúng thực hiện ở một

258

số nước , mà thực chất là " diễn biến hoà bình " , bạo loạn lật đổ. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu mới cho nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc , củng cố quốc phòng, an ninh . Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX và sự phát triển của tình hình , tôi hoàn toàn nhất trí với việc xác định về mục tiêu , phương hướng tăng cường quốc phòng , an ninh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa mà Báo cáo chính trị đã xác định . Đặc biệt, về mục tiêu , nhiệm vụ quốc phòng an ninh đã được trình bày rất khái quát , đầy đủ , toàn diện và cô đọng . Ở đây, tôi xin làm rõ thêm một số điểm : Thứ nhất , về giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng . Nhiệm kỳ qua , chúng ta đã lãnh đạo thực hiện đạt được những kết quả quan trọng , đã mở rộng về đối tượng cả đối với các chức sắc , chức việc tôn giáo . Nhưng chúng ta không thể bằng lòng với kết quả đã có . Báo cáo chính trị đặt ra yêu cầu phải bồi dưỡng cho toàn dân , phải đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng, chú trọng giáo dục thống nhất nhận thức về đối tượng và đối tác , nắm vững đường lối , quan điểm , yêu cầu , nhiệm vụ và nâng cao ý thức trách nhiệm , tinh thần cảnh giác trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ; tạo ra niềm tin vững chắc của nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc , tạo ra khả năng tự bảo vệ của mỗi người , của từng tổ chức . Để thực hiện tốt nhiệm vụ này , không chỉ là lực lượng chuyên trách , mà cần sự nỗ lực tham gia tích cực và sự phối hợp chặt chẽ của tất cả các lực lượng , trước hết là trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ và tổ chức đảng . Đồng thời , cần phải hoàn chỉnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục quốc phòng . Thứ hai, về kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh , xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân , xây dựng khu vực phòng thủ và các khu kinh tế - quốc phòng .

259

Nhiệm kỳ qua chúng ta đã có nhiều cố gắng tập trung sự lãnh đạo , chỉ đạo và đạt được những kết quả nhất định trong xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) ; khẳng định chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo , tạo ra khả năng độc lập xử lý các tình huống tại chỗ cả trong thời bình và thời chiến ; đã xác định được mô hình của khu vực phòng thủ với các tiêu chí cơ bản (xây dựng về chính trị - tinh thần; phát triển kinh tế, xoá đói , giảm nghèo ; xây dựng tiềm lực và thế trận quân sự ... ) ; trách nhiệm của các cấp uỷ và chính quyền địa phương được nâng lên rõ rệt ; đặc biệt sự phối hợp giữa Quân đội và Công an trong bảo đảm an ninh quốc gia - trật tự an toàn xã hội ngày càng có hiệu quả và nền nếp . Tuy nhiên , trước yêu cầu mới , để thực hiện tốt việc gắn chặt giữa xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân mà Báo cáo chính trị đã xác định , chúng ta cần tập trung lãnh đạo , chỉ đạo để nâng cao năng lực thực hành xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố ) ngày càng vững chắc ; xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch điều chỉnh dân cư ở các địa bàn chiến lược biên giới và biển đảo ; xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông , tăng thêm các đồn , trạm biên phòng . Trong tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia phải gắn chặt an ninh biên giới với an ninh nội địa để đạt được mục tiêu : thời bình giữ vững chính trị - xã hội để phát triển kinh tế , đánh bại "diễn biến hoà bình " , bạo loạn lật đổ

thời chiến đánh bại chiến tranh

xâm lược của địch . Phối hợp tốt với các nước láng giềng giải quyết những vấn đề tồn tại , những vấn đề nảy sinh và những tình huống trên biên giới đất liền và biển đảo , góp phần xây dựng biên giới hoà bình , hữu nghị, ổn định lâu dài . Về xây dựng các khu kinh tế quốc phòng, chúng ta đã xây dựng được 19 khu , tới đây sẽ tiếp tục xây dựng, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng với mục tiêu tăng cường quốc phòng , an ninh là chủ yếu để củng cố biên giới quốc gia ngày càng vững chắc . Tiếp

260

tục thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội , giúp dân " xoá đói , giảm nghèo ", phòng chống và khắc phục hậu quả thiên tai , cứu hộ , cứu nạn và cháy rừng; thực hiện tốt Chương trình quân - dân y kết hợp

Chương trình phòng chống buôn lậu ,

ma tuý , tội phạm ; đặc biệt , làm tốt hơn nữa việc đào tạo chỉ huy trưởng quân sự xã , phường, thị trấn ; tạo nguồn cán bộ là người dân tộc thiểu số ở các địa bàn vùng sâu , vùng xa thông qua môi trường rèn luyện trong Quân đội . Thứ ba, về xây dựng quân đội cách mạng, chính quy , tinh nhuệ , từng bước hiện đại . Nâng cao chất lượng tổng hợp , sức chiến đấu , khả năng sẵn sàng chiến đấu ( ở đây tôi xin đề nghị bổ sung thêm vào Báo cáo chính trị cụm từ " khả năng sẵn sàng chiến đấu " ). Việc xác định phương hướng, mục tiêu xây dựng quân đội như vậy là hoàn toàn đúng đắn , khẳng định rõ xây dựng quân đội phải lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở , khẳng định quân đội ta là quân đội cách mạng , đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối , trực tiếp về mọi mặt của Đảng; bảo đảm cho Quân đội tuyệt đối trung thành với Đảng, luôn kiên định , vững vàng trong mọi tình huống ; củng cố mối quan hệ gắn bó máu thịt quân - dân , được nhân dân tin yêu . Mặt khác , trong xây dựng quân đội chúng ta đặt ra mục tiêu " từng bước hiện đại " là hoàn toàn phù hợp với khả năng kinh tế của đất nước . Cùng với nội dung xây dựng quân đội về mặt chính trị , chúng ta tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng huấn luyện và đào tạo cả về tổ chức , nội dung , phương pháp , phương tiện để đáp ứng với yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh hiện đại . Phối hợp chặt chẽ liên kết đào tạo giữa các trường trong Quân đội với các trường dân sự và hợp tác quốc tế , chú trọng đào tạo cán bộ chiến lược và cán bộ các cấp . Chỉ đạo khắc phục những yếu kém về chấp hành kỷ luật và nếp sống chính quy . Để từng bước hiện đại hoá quân đội , từng bước đáp ứng nhu cầu vũ khí trang bị cho quân đội , trong điều kiện viện trợ như

261

trước đây không còn , việc tìm kiếm đối tác để mua sắm gặp rất nhiều khó khăn và ngân sách của chúng ta hạn hẹp , những năm qua , chúng ta đã cố gắng xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, sản xuất được một số loại vũ khí trang bị cho Quân đội . Trong thời gian tới , tiếp tục xây dựng công nghiệp quốc phòng trong hệ thống công nghiệp quốc gia dưới sự chỉ đạo, quản lý điều hành trực tiếp của Chính phủ , đầu tư có chọn lọc theo hướng công nghiệp hiện đại , vừa phục vụ quốc phòng vừa phục vụ dân sinh . Quá trình tổ chức thực hiện phải có bước đi vững chắc với các biện pháp đồng bộ để chuyển công nghiệp quốc phòng sang cho Nhà nước quản lý. Thứ tư , về xây dựng , bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động quốc phòng . Một là, cần lãnh đạo , chỉ đạo chặt chẽ , có bước đi vững chắc trong công tác chuẩn bị cán bộ để thực hiện tốt Nghị quyết 51 của Bộ Chính trị khoá IX về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ , chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam (tôi đề nghị bổ sung cụm từ " tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng " ). Hai là, cần bổ sung , hoàn thiện Quy chế phối hợp giữa quốc phòng , an ninh , đối ngoại để xử lý kịp thời , có hiệu quả các tình huống . Ba là, phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng, đặc biệt là đoàn kết , chủ động phối hợp , hiệp đồng giữa Quân đội và Công an ở tất cả các cấp , nhất là ở cơ sở trong việc nắm , đánh giá , dự báo tình hình và xử lý các tình huống để giữ vững ổn định chính trị , xã hội tạo điều kiện thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng .

262

NHIỆM VỤ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA , GIỮ GÌN TRẬT TỰ AN TOÀN XÃ HỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY ( Tham luận của đồng chí Lê Hồng Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị khoá IX , Bộ trưởng Bộ Công an, đại biểu Đảng bộ Công an Trung ương )

Năm năm qua , xu thế hoà bình , hợp tác , hội nhập vẫn phát triển , song tình hình thế giới và khu vực diễn biến hết sức phức tạp , những nhân tố đe dọa hòa bình , an ninh thế giới gia tăng . Chiến tranh cục bộ , xung đột vũ trang , xung đột sắc tộc , tôn giáo , hoạt động can thiệp , lật đổ, khủng bố ... đe doạ an ninh nhiều quốc gia . Kinh tế thế giới và khu vực đan xen những biểu hiện suy thoái , phục hồi và phát triển . Thiên tai , dịch bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản cho nhiều nước . Đối với Việt Nam , các thế lực thù địch vẫn ráo riết đẩy mạnh hoạt động " diễn biến hoà bình " với những phương thức , thủ đoạn ngày càng thâm độc , xảo quyệt , nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Chúng tìm cách móc nối giữa bọn phản động bên trong và bên ngoài nhằm công khai hoá , quốc tế hoá các hoạt động chống đối ; tập trung lợi dụng các vấn đề về "dân chủ " , " nhân quyền " , kích động tư tưởng ly khai , tự trị , gây rối , gây bạo loạn ; cài cắm cơ sở ; tác động , lôi kéo nhằm hình thành lực lượng chính trị đối lập ; đưa người , phương tiện , vũ khí vào trong nước tiến hành các hoạt động phá hoại .

263

Tiếp tục sự nghiệp đổi mới của đất nước , chúng ta đã thu được những thành tựu rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để giữ vững ổn định chính trị - xã hội và củng cố quốc phong - an ninh . Tuy nhiên , những yếu tố gây mất ổn định ben trong vẫn diễn ra gay gắt, có mặt ngày càng phức tạp hơn . Tình trạng suy thoái về chính trị , tư tưởng, đạo đức , lối sống của một bộ phận cán bộ , đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng vẫn nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục . Mặt trái của cơ chế thị trường tác động trực tiếp đến công tác bảo đảm an ninh , trật tự. Trong khi tình hình an ninh - chính trị có những diễn biến phức tạp mới , thì tình hình tội phạm cũng có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và tính chất nghiêm trọng . Xuất hiện nhiều loại tội phạm mới như: rửa tiền , tội phạm lợi dụng công nghệ cao , buôn bán phụ nữ , trẻ em ... Tệ nạn xã hội còn nghiêm trọng , nhất là tệ nạn ma tuý , mại dâm vẫn là mối lo lắng của toàn xã hội . Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX , cong tác bảo đảm an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự , an toàn xã hội trong 5 năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng . An ninh chính trị tiếp tục được giữ vững và ổn định , không xảy ra khủng bố , phá hoại , không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập , trật tự an toàn xã hội được bảo đảm , tạo môi trường , điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế , văn hoá , xã hội và đối ngoại của đất nước . Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, quyết sách quan trọng, có tính chiến lược , thể hiện rõ quan điểm đổi mới trong lãnh đạo , chỉ đạo công tác bảo vệ an ninh , trật tự như : xác định rõ hơn quan điểm về bảo vệ Tổ quốc , về đối tượng, đối tác , về phương thức hoạt động của lực lượng công an trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Chúng ta đã từng bước củng cố thế trận an ninh nhân dân , kết

264

hợp với thế trận quốc phòng toàn dân , nhất là ở các địa bàn trọng điểm . Công tác nắm tình hình chủ động hơn ; triển khai có hiệu quả nhiều kế hoạch bảo vệ , bảo đảm an toàn tuyệt đối các mục tiêu , các hội nghị quốc tế , các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước ; phát hiện , ngăn chặn bọn phản động từ bên ngoài xâm nhập vào nội địa , thu nhiều vũ khí, chất nổ và phương tiện hoạt động; đấu tranh làm thất bại ý đồ tập hợp lực lượng hình thành tổ chức chính trị phản động của một số đối tượng chống đối , giữ được ổn định tình hình . Phối hợp chặt chẽ với các ngành , các địa phương giải quyết ổn định kịp thời các vụ tranh chấp , khiếu kiện đông người trong nhân dân . Trong lĩnh vực phòng , chống tội phạm và giữ gìn trật tự an toàn xã hội , đã huy động được tốt hơn sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia các chương trình quốc gia phòng chống tội phạm , ma tuý , mại dâm , buôn bán phụ nữ , trẻ em ... Tập trung chỉ đạo nâng chất lượng các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản , quản lý chặt hơn các loại đối tượng ; liên tục mở các đợt phát động quần chúng tấn công, trấn áp tội phạm , phát hiện , xử lý nhiều vụ án lớn về kinh tế , tiêu cực, tham nhũng, thu hồi tài sản cho Nhà nước trị giá hàng nghìn tỷ đồng ; phát hiện , bóc gỡ , xử lý hàng trăm băng, nhóm tội phạm ma tuý, tội phạm có tổ chức , làm giảm được các loại tội phạm nghiêm trọng, kiềm chế sự gia tăng của tội phạm ; xử lý , giải quyết nhiều tụ điểm tệ nạn xã hội . Công tác thi hành án phạt tù trong 5 năm qua có tiến bộ , đã đề xuất Nhà nước xét đặc xá , tha tù cho hàng vạn phạm nhân bảo đảm yêu cầu chính trị , pháp luật , thể hiện rõ tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta , được dư luận nhân dân trong nước và quốc tế đồng tình ủng hộ . Triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về tăng cường cải cách tư pháp trong tình hình mới . Công tác quản lý nhà nước về an ninh , trật tự đã có nhiều đổi mới , nhất là cải tiến các thủ tục hành chính trong quản lý hộ khẩu , quản lý vũ

265

khí, phòng chống cháy nổ …. , tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất , kinh doanh , sinh hoạt và đời sống của nhân dân. Quản lý trật tự, an toàn giao thông có tiến bộ rõ rệt, góp phần làm giảm tai nạn và ùn tắc giao thông . Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các cơ quan an ninh , cảnh sát các nước về trao đổi thông tin , kinh nghiệm , phối hợp phòng chống tội phạm , cam kết pháp lý và huấn luyện , đào tạo cán bộ , góp phần mở rộng phòng tuyến an ninh của đất nước . Công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng Công an nhân dân được tăng cường và củng cố cả về chính trị , tư tưởng và tổ chức . Trình độ , năng lực của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ được nâng lên ; phương tiện và điều kiện làm việc được cải thiện hơn trước ; tuyệt đại đa số cán bộ , chiến sĩ có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Nhà nước và nhân dân , có phẩm chất đạo đức tốt , tận tuy phục vụ nhân dân ; xuất hiện ngày càng nhiều những tấm gương dũng cảm , mưu trí trong chiến đấu và công tác . Những kết quả , thành tích đạt được trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, tạo đà cho những năm tiếp theo . Đạt được kết quả đó, trước hết là do có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của Đảng, Nhà nước , sự ủng hộ và phối hợp chặt chẽ của các cấp , các ngành , đoàn thể và nhân dân , sự năng động đổi mới phương thức chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo công an các cấp và nỗ lực cố gắng của mỗi cán bộ, đảng viên trong lực lượng Công an nhân dân . Thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong 5 năm qua tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng , nhưng chưa cơ bản và vững chắc , vẫn còn những yếu kém và bất cập : Công tác nghiên cứu , dự báo tình hình , tham mưu chiến lược chưa đáp ứng được yêu cầu ; có việc còn bị động, bất ngờ . Việc thực hiện các chủ trương , giải pháp đấu tranh chống âm mưu " diễn biến hoà bình " của các thế lực thù địch , nhất là trên các lĩnh vực quản

266

lý nhà nước về an ninh , trật tự thiếu chủ động, chưa đồng bộ , kịp thời . Sự phối hợp giữa các lực lượng, các cấp , các ngành trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ở một số nơi chưa chặt chẽ và hiệu quả chưa cao . Thiếu sơ kết , tổng kết rút kinh nghiệm , nhân rộng các điển hình tiên tiến . Nhận thức về nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở một bộ phận cán bộ, đảng viên còn biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác . Tình trạng lộ , lọt bí mật Nhà nước còn xảy ra ở nhiều nơi . Công tác nắm tình hình ở cơ sở chưa sát, chậm phát hiện , xử lý , để một số băng nhóm tội phạm hình sự , ma tuý và những tụ điểm phức tạp về tệ nạn xã hội hoạt động trong thời gian dài , tính chất nghiêm trọng. Tỷ lệ điều tra , khám phá các vụ án hình sự so với các năm trước có nâng lên , nhưng vẫn còn thấp . Một số quy định và thủ tục hành chính trong quản lý nhà nước về an ninh , trật tự vẫn còn gây phiền hà , khó khăn cho nhân dân , nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi . Công tác quản lý kinh tế - xã hội và việc tổ chức thực hiện của chính quyền các cấp chưa theo kịp với tình hình , nên dẫn đến những sơ hở , lỏng lẻo trong quản lý , để kẻ địch và bọn tội phạm lợi dụng hoạt động . Từ thực tiễn công tác bảo vệ an ninh quốc gia , trật tự an toàn xã hội trong 5 năm qua , có thể rút ra một số bài học sau đây : 1. Nhiệm vụ bảo vệ an ninh , trật tự và xây dựng lực lượng Công an nhân dân phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối , trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của chính quyền các cấp , nhân dân tham gia và lực lượng Công an làm nòng cốt . 2. Chủ động đổi mới các mặt công tác , bám sát và phục vụ có hiệu quả việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước ; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị , dựa vào nhân dân để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh , trật tự . 3. Trong xử lý các vấn đề liên quan đến an ninh , trật tự phải

267

giữ vững nguyên tắc , đồng thời có sách lược mềm dẻo , linh hoạt , tranh thủ sự đồng thuận của mọi tầng lớp xã hội và ủng hộ của quốc tế . 4. Coi trọng công tác xây dựng đảng, xây dựng lực lượng Công an nhân dân vững mạnh về chính trị , tư tưởng và tổ chức , trong đó công tác cán bộ là khâu đột phá để tạo chuyển biến trong toàn bộ các mặt công tác của lực lượng công an . Tình hình liên quan đến an ninh , trật tự đang biến đổi nhanh chóng , khó lường , đòi hỏi cần phải nắm chắc , tiếp tục đổi mới chủ trương và giải pháp nhằm bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ , vô hiệu hoá các hoạt động thâm nhập , tác động chuyển hoá nội bộ ; đẩy mạnh đấu tranh chống địch phá hoại tư tưởng, nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ an ninh kinh tế , an ninh thông tin ; bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế , đấu tranh ngăn chặn , làm thất bại mọi âm mưu , hoạt động " diễn biến hoà bình " , bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch ; bảo đảm an ninh , trật tự ở các địa bàn trọng điểm , ngăn chặn các loại tội phạm , hạn chế và từng bước loại trừ những nhân tố gây mất ổn định , để trong bất cứ tình huống nào cũng phải giữ vững được an ninh quốc gia , trật tự an toàn xã hội , bảo vệ Tổ quốc , bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa . Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng về nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội , thời gian tới chúng ta cần tập trung thực hiện có kết quả các nhiệm vụ trọng tâm sau đây : Một là, các cấp uỷ đảng cần tập trung chỉ đạo việc tuyên truyền , giáo dục , làm cho cán bộ , đảng viên và nhân dân nhận thức rõ về tầm quan trọng của công tác bảo vệ an ninh trật tự trong tình hình hiện nay , nâng cao cảnh giác cách mạng, xác định trách nhiệm tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội . Tiếp tục quán triệt và triển khai

268

thực hiện có hiệu quả các chủ trương của Đảng và Nhà nước trên lĩnh vực này . Đẩy mạnh giáo dục nhiệm vụ giữ gìn an ninh , trật tự trong các trường đại học , cao đẳng, dạy nghề và phổ thông trung học ; bồi dưỡng kiến thức về công tác bảo vệ an ninh , trật tự cho cán bộ chủ chốt của Đảng , chính quyền , các ban , ngành , đoàn thể ở CƠ SỞ . Hai là, tăng cường công tác xây dựng Đảng, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ . Tổ chức tốt công tác nắm tình hình , phát hiện và đấu tranh phòng , chống địch thâm nhập , tác động phá hoại nội bộ . Thực hiện nghiêm những quy định về kỷ luật Đảng, nội quy bảo vệ cơ quan , bảo vệ bí mật Nhà nước . Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng , quản lý của Nhà nước đối với công tác xuất bản , thông tin , báo chí . Kiên quyết đấu tranh với các tư tưởng " đa nguyên chính trị" , không để hình thành tổ chức chính trị đối lập . Ba là, tiếp tục phát huy có hiệu quả hơn nữa sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị . Xác định rõ vai trò

phạm vi , trách

nhiệm của các cấp uỷ đảng , cơ quan nhà nước , các đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế , tổ chức xã hội trong công tác phòng chống tội phạm , phòng chống tham nhũng , tiêu cực . Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có kết quả các quy chế phối hợp giữa cơ quan chuyên trách với các ngành , các đoàn thể trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự , nhất là trong đánh giá , dự báo tình hình , xây dựng và tổ chức diễn tập phương án đối phó với các tình huống khủng bố , phá hoại , gây rối , gây bạo loạn ... Bốn là , tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc , phát huy sức mạnh của toàn dân trong công tác bảo đảm an ninh trật tự . Tập trung phát hiện , khắc phục kịp thời những sơ hở , thiếu sót trong việc thực hiện các chính sách quản lý kinh tế - xã hội , chính sách về đất đai , tôn giáo , dân tộc , chính sách đối với người có công , chính sách đối với đồng bào ở vùng sâu , vùng xa ... Giải quyết triệt

269

để , kịp thời những mâu thuẫn , tranh chấp , khiếu kiện trong nhân dân , nhằm tăng cường sự đồng thuận trong xã hội . Hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định của pháp luật về các quyền tự do , dân chủ ; đồng thời , kiên quyết đấu tranh ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tự do , dân chủ để phá hoại an ninh quốc gia , trật tự an toàn xã hội . Năm là , chủ động tăng cường quan hệ hợp tác với các nước về công tác bảo đảm an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội theo đúng đường lối đối ngoại của Đảng. Phối hợp chặt chẽ , thường xuyên với các cơ quan đối ngoại, tổ chức tốt công tác thông tin tuyên truyền , chủ động đấu tranh với những luận điệu vu khống , xuyên tạc , chống phá của các thế lực thù địch . Đẩy mạnh hợp tác với các nước trên lĩnh vực đấu tranh phòng , chống khủng bố và các loại tội phạm . Sáu là, tiếp tục xây dựng, kiện toàn các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội vững mạnh về mọi mặt . Nghiên cứu xây dựng một tổ chức phù hợp , đủ mạnh để tham mưu cho Đảng, Nhà nước và chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia . Tiếp tục xây dựng lực lượng Công an nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy , tinh nhuệ , từng bước hiện đại , nâng cao chất lượng, hiệu quả các mặt công tác , đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới .

Bảo vệ an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và có vị trí đặc biệt quan trọng . Để hoàn thành nhiệm vụ đó , chúng ta phải chủ động phát hiện , đấu tranh ngăn ngừa mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch ,

270

các loại tội phạm , tạo môi trường hoà bình , ổn định và điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng .

271

PHÁT HUY CAO ĐỘ NỘI LỰC , RA SỨC KHAI THÁC NGOẠI LỰC , KẾT HỢP CHẶT CHẼ SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI , TẠO SỨC MẠNH TỔNG HỢP ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC (Tham luận của đồng chí Nguyễn Dy Niên , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Ban cán sự đảng , Bộ trưởng Bộ Ngoại giao , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan đối ngoại Trung ương và các đảng bộ ngoài nước )

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại khi mà toàn Đảng , toàn dân ta vừa hoàn thành kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ XXI do Đại hội IX đề ra , đồng thời đánh dấu chặng đường 20 năm của công cuộc đổi mới vĩ đại do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo . Qua 20 năm đổi mới , công tác đối ngoại đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng , góp phần làm nên những thành tựu chung to lớn và có ý nghĩa lịch sử của đất nước , thể hiện sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về nhận thức , quan điểm , hoạch định chiến lược , chính sách và vận dụng thực tiễn trong lĩnh vực đối ngoại . Trong những năm đầu của thế kỷ XXI , tình hình thế giới và khu vực đã diễn ra hết sức phức tạp , thuận lợi và thách thức đan xen , tác động nhiều mặt và sâu rộng đến an ninh và phát triển của tất cả các quốc gia , trong đó có Việt Nam . Trong tình hình đó ,

272

Đảng ta đã kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập , tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế , phấn đấu vì hoà bình , độc lập và phát triển ; bám sát các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 8 khoá IX , nhất là quan điểm về đặt lợi ích dân tộc lên trên hết , về giải quyết mối quan hệ đối tác và đối tượng , giữa hợp tác và đấu tranh ; vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh ; nắm bắt và tận dụng thời cơ , đẩy lùi và giảm thiểu nguy cơ , do đó đã đạt được những thành tựu quan trọng , góp phần xứng đáng vào việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ do Đại hội IX đề ra . Chúng ta đã tiếp tục giữ vững và củng cố môi trường hoà bình , ổn định và tạo những điều kiện quốc tế thuận lợi hơn để phát triển đất nước ; tích cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; vị thế quốc tế của ta ngày càng được nâng cao . Những thành tích đối ngoại to lớn mà chúng ta đạt được trong 5 năm qua càng khẳng định tính đúng đắn của đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước , khẳng định bản lĩnh lãnh đạo của Đảng và khả năng của đất nước vững vàng vượt qua mọi thử thách để vươn tới mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh . Những thành tích đối ngoại ấy cùng với thành tựu phát triển chung của đất nước đã tạo tiền đề thuận lợi và cần thiết để chúng ta phát huy hơn nữa vai trò của đối ngoại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh tình hình mới . Từ thực tiễn xây dựng , hoàn thiện và triển khai thực hiện thắng lợi đường lối , chính sách đối ngoại của Đại hội IX cũng như qua chặng đường 20 năm đổi mới , chúng ta tiếp tục đúc kết kinh nghiệm và rút ra nhiều bài học quý báu . Trong đó , bài học về "phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại" là bài học có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng nước ta . Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại cũng chính

273

là một nội dung cơ bản của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh . Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố bên trong giữ vai trò quyết định và yếu tố bên ngoài có tác động , ảnh hưởng quan trọng , Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra tư tưởng này . Nhờ sự vận dụng, kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại , Người đã dẫn dắt Đảng ta , đưa con thuyền cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác . Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố đã làm nên thắng lợi vĩ đại và hào hùng của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước . Bằng sự kết hợp chặt chẽ giữa phát huy sức mạnh của cả dân tộc với tranh thủ sự ủng hộ to lớn cả về vật chất và tinh thần của các lực lượng cách mạng và loài người tiến bộ khắp năm châu , đặt cách mạng nước ta trong trào lưu chung của cách mạng thế giới để tạo thành sức mạnh tổng hợp , chúng ta đã đè bẹp ý chí của quân xâm lược mạnh hơn ta rất nhiều lần, thể hiện ở chiến thắng Điện Biên Phủ, ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 , Hiệp định Pari năm 1973 , và đỉnh cao là thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm 1975 . Cũng chính sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là nhân tố quan trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới của Đảng và nhân dân ta . Sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội , phá được thế bị cô lập , bao vây cấm vận , đồng thời bình thường hoá , không ngừng mở rộng và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng khu vực , các nước lớn, các trung tâm chính trị , kinh tế , tài chính thế giới, khu vực . Sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên nhiều , vị thế quốc tế của nước ta không ngừng được nâng cao . Trong suốt 5 năm nhiệm kỳ Đại hội IX, ngoại giao Việt Nam đã đóng vai trò tích cực và chủ động góp phần phát huy nội lực , tranh thủ ngoại lực , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại

274

nhằm giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội , công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , bảo đảm độc lập , chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình , độc lập dân tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội . Hoạt động ngoại giao thời kỳ đổi mới và đặc biệt là trong 5 năm qua đã chú trọng công tác phục vụ phát triển kinh tế ; nội dung kinh tế ngày càng thể hiện rõ nét trong mọi hoạt động chính trị đối ngoại . Các hoạt động nghiên cứu , tham mưu , vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở rộng thị trường buôn bán , lao động, quảng bá du lịch ... ngày càng được đẩy mạnh , nhất là ở các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài . Những hoạt động đó đã góp phần hiệu quả khuếch trương hình ảnh và những lợi thế cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới , tăng tính hấp dẫn để thu hút đầu tư nước ngoài . Những nguồn lực mà chúng ta tranh thủ được từ bên ngoài

đã góp phần quan trọng vào thực hiện

nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao sức mạnh tổng hợp của đất nước . Trong thời gian tới , trong bối cảnh toàn cầu hoá , ta cần coi trọng tạo dựng , nắm bắt và lợi dụng thời cơ , tranh thủ sức mạnh của thời đại thông qua chủ động và tích cực hội nhập , hợp tác quốc tế để phát huy nội lực , bứt phá nhanh hơn trong phát triển . Nếu như nội hàm của sức mạnh thời đại trong thời kỳ đấu tranh

1. Trong 5 năm qua : - Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 130 tỷ USD . - Đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt gần 17,9 tỷ USD , tổng vốn thực hiện đạt 13,6 tỷ USD . Hỗ trợ phát triển chính thức ODA được duy trì đều đặn với tổng giá trị đạt khoảng 15 tỷ USD . . Về du lịch , khách quốc tế đến thăm nước ta năm 2005 đạt 3,48 triệu lượt người so với 2,33 triệu lượt người năm 2001 .

275

giải phóng dân tộc là sức mạnh của ba dòng thác cách mạng, thì ngày nay , nội hàm của sức mạnh thời đại là sức mạnh đoàn kết đấu tranh của các lực lượng tiến bộ trên thế giới phấn đấu vì hoà bình , độc lập , dân chủ và phát triển ; là sức mạnh của lực lượng sản xuất ; là các tiến bộ vượt bậc của cách mạng khoa học - công nghệ ; là những mặt thuận lợi mà quá trình toàn cầu hoá kinh tế quốc tế mang lại . Tuy nhiên , muốn khai thác , tiếp thu tốt ngoại lực , thì nội lực ta phải mạnh . Nói cách khác , nếu chúng ta không chuẩn bị tốt bên trong , thì ngoại lực bên ngoài vào có mạnh , có nhiều đến đâu , cũng không phát huy được tác dụng, chưa nói là có thể có tác động ngược lại . Trong tình hình hiện nay , để củng cố , tăng cường nội lực , chúng ta cần hết sức chú trọng công tác xây dựng đảng, nhất là trên các vấn đề sau : Phải nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước , đẩy mạnh công tác cải cách hành chính , minh bạch hoá và đặc biệt , phải nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác kiểm tra . Phải không ngừng cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật của chúng ta , xây dựng nhà nước pháp quyền của dân , do dân và vì dân . - Phải kiên quyết đẩy mạnh công tác phòng và chống tham nhũng . Phải kiên quyết xử lý , xử lý kịp thời và nghiêm minh những người sai phạm , làm trong sạch đội ngũ của chúng ta . Trong 5 năm tới , chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo nội lực là quyết định , nhân tố bên ngoài là quan trọng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu Đại hội X đề ra là : sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , tạo nền tảng để đến năm 2020 , nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Để hoàn thành mục tiêu to lớn ấy , ngoại giao sẽ tiếp tục là một mặt trận quan rọng , là cầu nối kết hợp sức

276

mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại , tạo môi trường quốc tế thuận lợi hơn nữa và tranh thủ tốt hơn nữa sự hợp tác quốc tế phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước . Hoạt động đối ngoại phải được tiến hành trong mối quan hệ hữu cơ và biện chứng giữa thế và lực của đất nước , giữa phát triển đất nước và hội nhập quốc tế . Sức mạnh toàn diện của đất nước vẫn luôn là sự bảo đảm và cơ sở cho thắng lợi của hoạt động đối ngoại, đồng thời hoạt động đối ngoại góp phần làm tăng thêm sức mạnh cho đất nước . Tình hình thế giới thời gian tới tiếp tục diễn biến nhanh và phức tạp . Đối với nước ta , cơ hội phát triển ngày càng nhiều , nhưng thách thức đặt ra cũng không nhỏ Do đó , hơn lúc nào hết , ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta cần tranh thủ tốt nhất các cơ hội , vượt qua thách thức , tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển ; chính sách đối ngoại rộng mở , đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với phương châm : Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy , là thành viên tích cực và xây dựng của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, hợp tác và phát triển bền vững . Trong khi đẩy mạnh chính sách đa dạng hoá , đa phương hoá quan hệ quốc tế , chúng ta cần chú trọng hơn đến trọng tâm , trọng điểm . Theo đó , thứ tự ưu tiên trong quan hệ với các nước sẽ là : Một là, các nước láng giềng , khu vực ; hai là, quan hệ với các nước lớn , trung tâm lớn (đặc biệt coi trọng Trung Quốc và Mỹ) ; ba là, bạn bè truyền thống và các nước đang phát triển khác ở châu Á, Trung Đông , châu Phi và Mỹ Latinh . Cùng với thúc đẩy quan hệ song phương , chúng ta cũng cần tăng cường các hoạt động ngoại giao đa phương nhằm nâng cao vị thế quốc tế của đất nước ; tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và vận động cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài ; đồng thời , tiếp tục phát huy vai trò quan trọng của ngoại giao nhân dân và các hình

277

thức ngoại giao phong phú khác cùng với ngoại giao của Đảng , Nhà nước và Quốc hội tạo thành sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại . Quán triệt tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và đúc rút từ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của 20 năm đổi mới , chúng tôi thấy cần thực hiện " 5 không " để có thể hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại do Đại hội X đề ra : Một là, không đánh giá sai , không dự báo sai : không đánh giá sai tình hình quốc tế , không đánh giá sai các đối tác , đối tượng , phải hiểu đúng chính sách của họ . Hai là, không để bị động, bất ngờ , lúng túng đối phó trước những diễn biến của tình hình . Ba là, không để mất thời cơ , mà phải tận dụng thời cơ và chủ động tạo dựng thời cơ . Bốn là , không để mất vai trò trong các tổ chức khu vực và quốc tế . Năm là, không bị kéo vào xung đột , tranh chấp quyền lợi giữa các nước lớn . Bên cạnh đó , con người luôn là yếu tố quyết định để chúng ta thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ đối ngoại quan trọng trong thời gian tới . Chúng ta cần quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao vừa hồng, vừa chuyên , đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của thực tiễn công tác đối ngoại trong thời kỳ mới . Chúng ta cần bảo vệ các phẩm chất cao đẹp lâu nay của cán bộ ngoại giao Việt Nam , kiên quyết ngăn chặn và răn đe các hiện tượng thoái hoá , vi phạm kỷ cương . Những thành quả to lớn , có ý nghĩa lịch sử , cũng như những kinh nghiệm phong phú tích luỹ được trong quá trình 20 năm đổi mới và phát triển đất nước , đặc biệt là giai đoạn 5 năm nhiệm kỳ Đại hội IX, đã đặt nền móng vững chắc để chúng ta tiếp bước trên con đường đổi mới , xây dựng đất nước ta ngày càng " đàng hoàng hơn , to đẹp hơn " như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn .

278

Trong hơn 60 năm xây dựng và trưởng thành , các lực lượng đối ngoại Việt Nam luôn xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân , hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó và đóng góp xứng đáng vào những thành tựu vĩ đại của cả dân tộc . Dưới sự lãnh đạo của Đảng và ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X , đối ngoại Việt Nam sẽ tiếp tục truyền thống vẻ vang đó, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của một mặt trận và một binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam .

279

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG , CHỐNG THAM NHŨNG ĐỂ THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT

ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC LẦN THỨ X CỦA ĐẢNG ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Đảng uỷ Khối Nội chính Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Nội chính Trung ương )

Trong 5 năm qua , cuộc đấu tranh chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta đã được tăng cường một bước đáng kể và đạt được một số kết quả nhất định , góp phần phát triển kinh tế - xã hội , giữ vững ổn định chính trị và trật tự , an toàn xã hội . Tuy nhiên , chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng , cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong mấy năm qua chưa đạt tới mục tiêu do Đảng ta đặt ra và chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân . Tình hình tham nhũng hiện nay vẫn diễn biến hết sức nghiêm trọng với quy mô ngày càng lớn , phạm vi ngày càng rộng và tính chất ngày càng phức tạp , nguy hiểm . Trong 3 năm qua , dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng , Ban Nội chính Trung ương đã tiến hành Dự án nghiên cứu và điều tra xã hội học đầu tiên về thực trạng, nguyên nhân tham nhũng ở Việt Nam . Các kết quả của dự án này cho phép chúng ta lượng hoá được bức tranh đáng báo động về thực trạng tham nhũng ở nước ta , đồng thời xác nhận rằng việc Đại hội Đảng lần

280

thứ IX coi tham nhũng là một nguy cơ nghiêm trọng đối với sự phát triển của đất nước không chỉ thể hiện một nhãn quan chính trị sâu sắc , mà còn có cơ sở khoa học vững chắc . Tình hình tham nhũng xảy ra phổ biến , nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân , nhưng nguyên nhân lớn nhất là do tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nói chung , của bộ máy nhà nước nói riêng , còn nhiều bất cập , đi cùng với sự thoái hoá, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên, công chức. Trong đó , cần dũng cảm khẳng định rằng những nguyên nhân chủ quan là chủ yếu . Mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng trong công tác xây dựng đảng và kiện toàn hệ thống chính trị, nhưng đến nay , năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của nhiều tổ chức đảng và đảng viên vẫn còn hạn chế, thậm chí không ít nơi đã bị tham nhũng làm cho tê liệt . Tình trạng nể nang, né tránh , không dám nói thẳng, nói thật đang là căn bệnh của nhiều tổ chức đảng ; một số cấp uỷ và cán bộ chủ chốt chưa thực sự gương mẫu trong công tác và sinh hoạt . Nguyên tắc công khai , minh bạch trong hoạt động của hệ thống chính trị chưa được coi trọng . Công tác tổ chức cán bộ còn nhiều yếu kém , để lọt một bộ phận cán bộ - công chức thoái hoá , biến chất , cơ hội , nắm giữ các chức vụ lãnh đạo , quản lý . Hoạt động của các cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước như kiểm tra , thanh tra , điều tra , kiểm sát , xét xử chưa đủ sức răn đe , ngăn chặn tham nhũng. Vì vậy , trong nhiệm kỳ tới , nếu không được ngăn chặn một cách có hiệu quả thì tham nhũng sẽ trở thành thách thức lớn nhất của công cuộc đổi mới đất nước , là nguy cơ đe doạ sự tồn vong của chế độ . Có thể nói , vụ án tham nhũng cực kỳ nghiêm trọng xảy ra tại PMU18 thuộc Bộ Giao thông vận tải mà dư luận xã hội đặc biệt quan tâm , bất bình và phẫn nộ trong những ngày qua đã phản ánh

281

khá đầy đủ những yếu kém của chúng ta trong phòng , chống tham nhũng . Chúng ta thật đau xót nhận thấy rằng, trong khi nhân dân ta phải gồng mình để lo trả nợ thì lại phải sử dụng những công trình kém chất lượng do bị xà xẻo , ăn bớt một cách trắng trợn . Từ diễn đàn của Đại hội , chúng ta càng thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ kính yêu , được các bậc lão thành cách mạng nhắc lại nhiều lần trong những ngày qua , rằng Đảng ta cần nhìn thẳng vào sự thật , thừa nhận những yếu kém của mình được phơi bày qua vụ PMU18 và quyết tâm khắc phục , sửa chữa . Vấn đề đặt ra là , cùng với việc trừng trị hành vi tham nhũng , chúng ta phải đồng thời quan tâm đặc biệt tới việc hoàn thiện cơ chế quản lý. Vì vậy , trong nhiệm kỳ Đại hội X , chúng ta cần phải đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hơn nữa và phải tạo cho được những chuyển biến rõ rệt, đủ sức khơi dậy và củng cố niềm tin của nhân dân vào quyết tâm chính trị chống tham nhũng của Đảng ta. Là Đảng cầm quyền , chúng ta phải tìm ra phương châm lãnh đạo và hành động đúng đắn trong cuộc đấu tranh phức tạp này . Một mặt , phải có những nỗ lực to lớn hơn nữa để nâng cao hiệu quả công tác phát hiện và xử lý các hành vi tham nhũng . Mặt khác , kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng, một khi tham nhũng đã trở nên trầm trọng, thì càng phải đề cao công tác phòng ngừa , ngăn chặn tham nhũng mới phát sinh . Đẩy mạnh công tác phòng ngừa không phải là né tránh , mà là sự sáng suốt về chính trị, đồng thời là phương thức chống tham nhũng hiệu quả nhất . Với phương châm này , chúng tôi đề nghị cần tập trung thực hiện tốt một số giải pháp vừa cơ bản, vừa cấp bách sau đây :

1. Kiên quyết khắc phục những điểm yếu kém, hạn chế , nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các cơ quan , tổ chức

Trước hết và ngay tại diễn đàn của Đại hội này , chúng ta cần

282

trao đổi thẳng thắn và đề ra những biện pháp thiết thực nhằm chấn chỉnh lại công tác then chốt , có ý nghĩa sống còn là công tác xây dựng đảng, kể cả về chính trị , tư tưởng và tổ chức , cán bộ . Chúng ta phải thực hành nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ ; xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong Đảng; tôn trọng các ý kiến khác nhau trong sinh hoạt đảng , nhưng phải bảo đảm nguyên tắc tập thể trong công tác cán bộ nhằm ngăn chặn , không để những kẻ thoái hoá , biến chất có cơ hội tiến thân trong Đảng và bộ máy nhà nước . Các cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở cần kiểm tra , kết luận , xử lý kịp thời những đơn thư tố cáo về đạo đức , lối sống của đảng viên , trước hết là đối với cán bộ lãnh đạo , quản lý . Có thể nói , công tác xây dựng đảng tới đây phải coi phòng ngừa tham nhũng trong công tác cán bộ là một nội dung có ý nghĩa quyết định . Cán bộ chủ chốt của các cấp uỷ cần gương mẫu thực hiện các quy định về thực hành tiết kiệm , chống lãng phí , chống tiêu cực và không khoan nhượng với bất cứ trường hợp tham nhũng nào khi bị phát hiện , xử lý , kể cả với người thân của mình ; đồng thời , tăng cường giáo dục , nhắc nhở vợ (chồng) , con và nhân viên dưới quyền , không để họ lợi dụng vị trí của mình để vụ lợi . Xây dựng và thực hiện quy chế cán bộ lãnh đạo của các cấp uỷ cam kết hoặc tuyên bố công khai trong đảng bộ hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng về sự trong sạch của mình . Đồng thời , phải sớm có quy chế giám sát trong Đảng và quy chế để nhân dân giám sát các tổ chức đảng và đảng viên . Thực hiện chế độ chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh hoạt đảng ở tất cả các cấp . Về xây dựng nhà nước , chúng ta phải phát huy cho được vai trò của các cơ quan dân cử trong giám sát hoạt động của bộ máy hành chính và tư pháp , đồng thời phải có cơ chế tạo ra sự gắn bó và giám sát của cử tri với đại biểu của mình . Đối với bộ máy hành chính nhà nước , cần kiên quyết thực hiện cải cách hành chính , tạo lập cơ chế công khai, minh bạch , khắc phục tình trạng khép kín để

283

nhân dân giám sát đội ngũ công chức thi hành công vụ, khiến cho cán bộ , công chức khó có thể tham nhũng được . Đồng thời , phải đẩy tới một bước công cuộc cải cách tư pháp , xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch , vững mạnh , đủ khả năng miễn

trừ trước các

hành vi chạy án , nhất là án về tham nhũng .

2. Đổi mới và chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ Thực hiện tốt nguyên tắc công khai , dân chủ trong công tác cán bộ , từ khâu tuyển dụng , đánh giá , sử dụng , quy hoạch , bổ nhiệm , đến khen thưởng , kỷ luật , cho nghỉ hưu để xoá bỏ tình trạng " chạy chức , chạy quyền " trong hệ thống chính trị . Phải có quy chế về trách nhiệm đối với người làm công tác tham mưu về tổ chức , cán bộ và người ra quyết định tuyển dụng , bổ nhiệm , nếu cán bộ được tuyển dụng, bổ nhiệm có hành vi tham nhũng. Chấn chỉnh công tác thi tuyển công chức và mở rộng việc tuyển chọn , bổ nhiệm cán bộ dựa trên cơ sở thi tuyển công khai . Khuyến khích công chức tự ứng cử và thi tuyển vào các chức danh lãnh đạo , quản lý với những chương trình hành động cụ thể . Kiên quyết không đề bạt , bổ nhiệm những cán bộ mà dư luận đông đảo cho rằng đã có hành vi tham nhũng .

Thực hiện nghiêm túc quy định về kê khai tài sản và kiểm soát thu nhập của cán bộ , công chức . Người kê khai tài sản không trung thực phải bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật . Nghiên cứu , áp dụng kinh nghiệm tốt mà nhiều nước đã làm là bắt buộc công chức phải giải trình nguồn gốc hợp pháp tài sản của mình . Bên cạnh đó , Nhà nước cũng cần có biện pháp kiểm soát các giao dịch về tài sản trong xã hội , trước hết là của cán bộ , công chức và đối với những tài sản có giá trị lớn như nhà và đất để ngăn ngừa tham nhũng và chống thất thu thuế. Mặt khác , phải công khai các khoản thu nhập để kiểm soát được thu nhập của cán bộ , công chức . Chính phủ cần sớm tổ chức thực hiện tốt quy định của Luật phòng

284

chống tham nhũng về việc chi trả lương và các khoản chi phí khác cho công chức từ ngân sách nhà nước phải thông qua tài khoản cá nhân để hạn chế tối đa việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch , trước mắt có thể triển khai thực hiện ở khu vực đô thị .

3. Phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân trong công tác phòng, chống tham nhũng Nhìn chung , những kẻ tham nhũng không thể che mắt được tất cả mọi người trong cơ quan , đơn vị và những người dân sống xung quanh hoặc những người thường xuyên tiếp xúc với họ . Do đó , cần phát động quần chúng tố giác và đấu tranh mạnh mẽ với những hành vi tham nhũng . Để có thể thu nhận được nhiều thông tin về tham nhũng , cần xây dựng cơ chế thuận lợi , đơn giản cho người dân phản ánh , tố cáo về các hành vi tham nhũng. Phát huy mạnh mẽ vai trò của báo chí trong việc phát hiện , lên án và tạo dư luận đấu tranh kiên quyết với các hành vi tham nhũng . Kinh nghiệm thành công trong việc phát hiện , xử lý một số vụ án tham nhũng trong thời gian qua là : kết hợp tốt sự phát hiện của quần chúng với việc đưa tin của báo chí và hoạt động của cơ quan chức năng . Tuy nhiên , kinh nghiệm cũng chỉ ra rằng , cần khuyến khích báo chí đưa tin một cách khách quan , trung thực , tránh gây ngộ nhận hoặc làm cho quần chúng hiểu lầm quyết tâm chính trị của Đảng ta .

4. Xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có hành vi tham nhũng

Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý theo các chế độ trách nhiệm chính trị , hành chính hoặc hình sự , bất kể người đó là ai và ở cương vị nào , dù đương chức hay đã nghỉ hưu , không coi nhẹ xử lý hình sự , nhưng phải coi trọng hơn nữa việc xử lý hành chính .

285

Trước mắt, phải tập trung lực lượng để ngăn ngừa , phát hiện và đấu tranh mạnh trong một số lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao , như : đầu tư xây dựng cơ bản ; quản lý , sử dụng đất đai ; tài chính - ngân hàng ; quản lý tài chính công, có lưu ý đặc biệt tới quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước .

5. Tiếp tục cải cách chế độ tiền lương , thu nhập và chế độ đãi ngộ của cán bộ, công chức Một trong những nguyên nhân của tham nhũng là mức thu nhập của cán bộ , công chức còn thấp . Vì vậy , tiếp tục cải cách chế độ tiền lương , bảo đảm cho cán bộ , công chức và gia đình họ có mức sống bình thường bằng thu nhập hợp pháp là biện pháp phòng ngừa tham nhũng quan trọng và có ý nghĩa chiến lược . Nhiều nước có chủ trương trả lương cao cho công chức để công chức "không cần tham nhũng" hoặc trả lương cho công chức tương đương với mức thu nhập ở khu vực kinh doanh . Vì vậy , chúng ta cần mạnh dạn vượt qua quan niệm không còn phù hợp với tình hình mới , quá nhấn mạnh yêu cầu cống hiến mà không quan tâm đầy đủ tới yếu tố lợi ích của cán bộ , công chức , nhanh chóng tiến tới giải quyết vấn đề thu nhập theo các nguyên tắc của thị trường . Mặt khác , phải bảo đảm sự công bằng trong việc thực hiện các chế độ đãi ngộ đối với cán bộ , công chức . Đồng thời , phải kiên quyết chống tham nhũng thì mới có điều kiện đãi ngộ cao hơn cho cán bộ , công chức .

6. Quan tâm đặc biệt tới các lực lượng làm nhiệm vụ trực tiếp trên mặt trận chống tham nhũng Công tác tổ chức , cán bộ trong các cơ quan thanh tra , kiểm tra , điều tra , kiểm toán , viện kiểm sát và toà án có ý nghĩa sống còn đối với sự thành công của cuộc đấu tranh phòng , chống tham nhũng . Vì vậy , chúng ta phải làm tốt 3 việc sau đây : Một là, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hoạt động

286

thanh tra , kiểm tra , kiểm toán , điều tra , truy tố , xét xử ; đề cao tính khách quan , chính xác của các kết luận thanh tra , kiểm tra , kiểm toán , điều tra ; đồng thời , bảo đảm công lý trong công tác truy tố , xét xử . Hai là, nghiên cứu để sớm có chế độ , chính sách đãi ngộ phù hợp với cán bộ trong các cơ quan làm nhiệm vụ chống tham nhũng. Ba là, tăng cường công tác thanh tra , kiểm tra việc thực thi công vụ của cán bộ , công chức nói chung, đặc biệt là phải sớm hoàn thiện các cơ chế kiểm tra , thanh tra nội bộ trong các cơ quan thanh tra , kiểm toán , điều tra , viện kiểm sát , toà án nhằm phòng ngừa tham nhũng trong các cơ quan này . Mặt khác , phải có cơ chế xử lý nghiêm minh , công khai cán bộ các cơ quan chống tham nhũng lạm dụng chức vụ , quyền hạn của mình . Phòng , chống tham nhũng, xét về bản chất , là giữ gìn sự trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của Đảng . Phòng , chống tham nhũng vừa là nhiệm vụ cấp bách của nhiệm kỳ Đại hội X , nhưng cũng là một chủ trương chiến lược lâu dài , cần phải được thống nhất về ý chí , quyết tâm chính trị , đồng thời phải được tổ chức thực hiện nghiêm túc trong từng chiến dịch . Trong quá trình đó , phải sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị , tư tưởng, pháp luật , kết hợp hài hoà giữa giáo dục và trừng trị , giữa xây và chống . Chúng tôi cho rằng , phải chống tham nhũng thành công thì mới thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Vì vậy , phòng , chống tham nhũng vừa là một nhân tố quan trọng , vừa là một điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng .

287

ĐỘNG VIÊN NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI HƯỚNG VỀ TỔ QUỐC , TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC ( Tham luận của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài )

Trong sự nghiệp cách mạng lâu dài và vinh quang của Đảng và nhân dân ta , chính sách đại đoàn kết dân tộc với tinh thần "Đoàn kết , Đoàn kết , Đại đoàn kết . Thành công , Thành công , Đại thành công " luôn luôn được quán triệt và thể hiện nổi bật trong tư tương và hành động của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Cộng đông người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của đại gia đình các dân tộc Việt Nam . Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài luôn luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng trong chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh . Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc , thống nhất Tổ quốc và những thành tựu của thời kỳ khôi phục và xây dựng đất nước sau chiến tranh có sự đóng góp rất quý báu về tinh thần , vật chất , trí tuệ và cả xương máu của kiều bào ta ở nước ngoài . Trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay , công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm . Đầu những năm 90 thế kỷ XX , lần đầu tiên Bộ Chính trị đã ban hành một nghị

288

quyết riêng - Nghị quyết số 08/NQ - TW , ngày 29-11-1993 về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Năm 2004 , để phù hợp với những chuyển biến mới của tình hình thế giới , tình hình đất nước trong giai đoạn công nghiệp hoá , hiện đại hoá , cũng như những chuyển biến mới trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài , Bộ Chính trị ban hành nghị quyết công khai đầu tiên về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài - Nghị quyết số 36 /NQ - TW , ngày 26-3-2004 , một nghị quyết hết sức đúng đắn và kịp thời. Nghị quyết số 36/NQ - TW khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam , là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác , hữu nghị giữa nước ta với các nước , xác định trách nhiệm của Nhà nước trong việc hỗ trợ bà con ổn định cuộc sống , hội nhập vào xã hội nước sở tại , đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê hương, đất nước . Nghị quyết số 36 /NQ -TW nhấn mạnh công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết dân tộc , xoá bỏ mặc cảm , định kiến , phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp , không phân biệt dân tộc , tôn giáo , nguồn gốc xuất thân , địa vị xã hội , lý do ra nước ngoài và xác định công tác này là "một nhiệm vụ quan trọng" của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân . Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị , Quốc hội , Chính phủ , các bộ , ngành ở Trung ương và các địa phương đã tích cực triển khai nhiều chính sách , biện pháp cụ thể , thiết thực trên các lĩnh vực khác nhau và hướng tới các đối tượng khác nhau . Trong bối cảnh đất nước ta tiếp tục giành được những thành tựu to lớn về mọi mặt trong sự nghiệp đổi mới, vị thế quốc tế không ngừng được nâng cao , nhất là quan hệ giữa nước ta và các nước có đông kiều bào sinh sống không ngừng phát triển , việc thực hiện Nghị quyết số 36/NQ - TW của Bộ Chính trị đã đưa lại những kết quả rất quan trọng và tạo ra một số chuyển biến có tính chất

289

đột phá trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài . Một là, tạo ra sự phấn khởi , tin tưởng của bà con kiều bào ở nước ngoài vào sự phát triển của đất nước và các chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước ; ngày càng tăng thêm tình cảm gắn bó với Tổ quốc , quê hương và sự đóng góp về tinh thần , vật chất đối với công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước . Số lượng kiều bào về thăm đất nước tăng mạnh qua các năm : từ 360.000 lượt người năm 2003 lên 430.000 năm 2004 và gần nửa triệu người năm 2005 ; hàng năm lượng kiều hối gửi về nước tăng từ 30-40 % ; kiều bào cũng đang triển khai hàng trăm dự án đầu tư ở các địa phương trong nước ; sự đóng góp về chất xám dưới những hình thức khác nhau cũng ngày càng lớn và có ý nghĩa thiết thực ; các doanh nhân là kiều bào cũng đang góp phần làm cầu nối , đưa hàng hoá Việt Nam ra tiếp cận với thị trường một số nước trên thế giới... Tuy nhiên , chúng tôi nhận thức rằng, những gì đã đạt được mới chỉ là bước đầu , bởi lẽ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay đã lên tới gần 3 triệu người , sinh sống tại khoảng 90 quốc gia và vùng lãnh thổ; đại đa số có ý thức dân tộc , tấm lòng đối với đất nước rất sâu đậm , đều thiết tha mong muốn được góp sức xây dựng đất nước . Tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài khá phong phú về nhiều mặt , trong đó đặc biệt quý giá là tiềm năng về chất xám . Ở một số địa bàn , cộng đồng người Việt Nam dần có vị trí quan trọng hơn trong nền chính trị , kinh tế của nước sở tại và trở thành một nhân tố có thể đóng vai trò quan trọng thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa ta với các nước , mặc dù các nhóm người Việt cực đoan , phản động cũng tìm cách tăng cường hoạt động phá hoại đất nước , xuyên tạc đường lối , chính sách của Đảng và Nhà nước , song khả năng khống chế cộng đồng của chúng ngày càng hạn chế hơn . Hai là , Nghị quyết số 36 /NQ - TW của Bộ Chính trị cũng tạo cho bà con những kỳ vọng rất lớn , bà con mong muốn những nguyện

290

vọng bức xúc , những quyền lợi chính đáng được Đảng, Nhà nước thấu hiểu , ủng hộ nhanh chóng và được thực hiện . Do vậy, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng trở nên cấp thiết hơn , đồng thời cũng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn . Trong khi đó , việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết số 36/NQTW còn không ít hạn chế, bất cập . Trước hết , nhận thức về công tác này chưa có sự thống nhất hoàn toàn . Tinh thần hoà hợp , hoà giải dân tộc chưa được quán triệt đầy đủ, vẫn còn định kiến với quá khứ hoặc lý do ra nước ngoài của một bộ phận đáng kể trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài . Sự quan tâm đến công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ở nhiều cấp , nhiều bộ , ngành cũng chưa tương xứng , do đó việc xây dựng một số chính sách nhằm khuyến khích bà con tăng cường hơn nữa tình cảm gắn bó và sự đóng góp đối với quê hương, đất nước còn khá chậm so với kế hoạch đề ra và càng chậm so với mong muốn của bà con cũng như đòi hỏi của tình hình . Nhiều chính sách đã được ban hành , nhiều quyết định đã được lãnh đạo thông qua chưa được thực hiện nghiêm chỉnh hoặc bị trì hoãn triển khai hoặc thi hành không nhất quán , nhất là ở một số cơ sở . Nhiều vấn đề cụ thể trực tiếp liên quan đến đông đảo bà con như tạo thuận lợi cho nhập cảnh và cư trú , các thủ tục hồi hương , vấn đề quốc tịch ; nguyện vọng được mua nhà gắn với quyền sử dụng đất ... vẫn chưa được giải quyết . Trong một số vụ án hoặc xử lý về mặt pháp luật đối với một số vụ việc liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài ở một số địa phương chưa thực sự thấm nhuần những chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước , nên còn để lại những hậu quả xấu , tâm lý lo lắng , thiếu tin tưởng cho một số kiều bào về nước làm ăn , sinh sống . Bộ máy và hệ thống cơ cấu tổ chức làm công tác về người Việt Nam ở nước ngoài , các phương tiện hoạt động và kinh phí cần thiết như yêu cầu của Nghị quyết số 36/ NQ -TW cũng chậm được tăng cường .

291

Những bất cập này đã hạn chế kết quả của công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài . Mong muốn chung của bà con Việt kiều là Nghị quyết số 36 /NQ - TW của Bộ Chính trị được tiếp tục triển khai tích cực , khẩn trương và cụ thể hơn nữa . Trong bối cảnh đó , chúng tôi cho rằng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tiếp tục thúc đẩy công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài . Với nhận thức như vậy , thực hiện Hướng dẫn số 02/HD - TW của Ban Bí thư , Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài , Bộ Ngoại giao đã có nhiều hình thức thích hợp tổ chức cho kiều bào hiện đang ở trong nước và ngoài nước đóng góp ý kiến cho Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội và Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao đã có báo cáo đầy đủ . Riêng về phần đề cập đến cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong Báo cáo chính trị , tiếp thu ý kiến của bà con và trên cơ sở trao đổi , thống nhất với một số cơ quan hữu quan , Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao xin kiến nghị Đại hội thể hiện vào Nghị quyết Đại hội như sau : " Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam , là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác , hữu nghị giữa nước ta với các nước ; góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" .

Chúng tôi cho rằng, trong thời gian tới , cần tổ chức kiểm điểm , đánh giá một cách toàn diện và nghiêm túc kết quả 2 năm thực hiện Nghị quyết số 36/NQ - TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài . Trên cơ sở đó , nâng cao thêm một bước nhận thức và ý nghĩa quan trọng của công tác này trong hệ thống chính trị và trong nhân dân ; đồng thời đề ra những biện pháp cụ thể nhằm khai thông một số vấn đề vướng mắc , tạo những bước tiến mới , thực chất hơn trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài . Chúng tôi cũng xin kiến nghị các cấp uỷ đảng và

292

chính quyền cần tiếp tục tăng cường sự quan tâm , chỉ đạo đối với công tác này và cần có một sự thống nhất cao , sự phối hợp chặt chẽ trong các hoạt động cụ thể . Chúng tôi tin tưởng chắc chắn rằng, dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng , sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, các tổ chức đảng, Nhà nước , Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân , các ngành , các cấp từ Trung ương đến địa phương và toàn dân ta sẽ tiếp tục coi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là một nhiệm vụ quan trọng ; có những nỗ lực to lớn hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ này nhằm động viên người Việt Nam ở nước ngoài hướng về Tổ quốc , góp sức tích cực xây dựng thành công một nước Việt Nam dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh .

293

LẠNG SƠN GÓP PHẦN XÂY DỰNG BIÊN GIỚI HOÀ BÌNH , ỔN ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn )

Là tỉnh miền núi , biên giới , nằm ở phía Đông Bắc của Tổ quốc , có đường biên giới giáp với Quảng Tây (Trung Quốc ) dài 253 km , có 2 cửa khẩu quốc tế (đường bộ là Hữu Nghị và đường sắt là Đồng Đăng), 2 cửa khẩu chính ( Chi Ma và Bình Nghi) và nhiều cửa khẩu phụ khác ; thành phố Lạng Sơn chỉ cách Thủ đô Hà Nội 154 km ... với vị thế của mình , trong lịch sử cũng như hiện tại , Lạng Sơn luôn được xác định là một tỉnh có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội , ổn định chính trị và an ninh quốc phòng . Thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo , Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã nêu cao tinh thần đoàn kết , đưa Lạng Sơn từ một tỉnh nghèo , cơ sở hạ tầng bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển tương đối toàn diện , tốc độ tăng trưởng khá cao so với khu vực và cao hơn mức bình quân chung của cả nước ; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên ; quốc phòng an ninh được giữ vững ; trật tự an toàn xã hội được đảm bảo ; chính trị ổn định , biên cương của Tổ quốc được giữ vững . Những thành tựu đó đã được khẳng định tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn lần thứ XIV ( nhiệm kỳ 2006 - 2010) . Chúng tôi đồng tình với định hướng , chính sách phát triển các vùng trọng điểm như trong Báo cáo phương hướng , nhiệm vụ phát

294

triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội lần này . Bộ Chính trị khoá IX đã có Nghị quyết số 37 về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội , bảo đảm quốc phòng an ninh vùng trung du miền núi Bắc Bộ . Là một tỉnh trong khu vực và thuộc phạm vi điều chỉnh của nghị quyết này , Lạng Sơn đã tổ chức quán triệt , vận dụng và tổ chức thực hiện với nhiều chủ trương, nhiệm vụ , giải pháp cụ thể . Chúng tôi nhận thức được rằng , với vị trí địa lý , tiềm năng , lợi thế của tỉnh , Lạng Sơn có đầy đủ điều kiện và sẽ quyết tâm phấn đấu , bứt phá đi lên để trong một khoảng thời gian không dài , trở thành một tỉnh giàu mạnh trong vùng, góp phần vào sự phát triển chung của cả nước .

1. Những cơ hội và thách thức đối với Lạng Sơn Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay , với vị trí của mình , Lạng Sơn có nhiều thuận lợi và thời cơ mới : hiện nay việc Trung Quốc thúc đẩy xây dựng hình thành thị trường mậu dịch tự do với ASEAN , thực hiện chương trình " thu hoạch sớm " tích cực chuẩn bị cho việc mở rộng hợp tác với Việt Nam và các nước Đông Nam Á thông qua các địa bàn đầu mối , Lạng Sơn lại nằm trong tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc ) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng , chắc chắn Lạng Sơn sẽ là một trong những cầu nối quan trọng , là một điểm trung chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu , tuyến du lịch quốc tế của cả nước với Trung Quốc và khu vực . Bên cạnh đó , tình hình chính trị - kinh tế - xã hội trong nước ngày càng ổn định và phát triển , hệ thống cơ chế , chính sách của Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện hơn , đặc biệt là các cơ chế hỗ trợ cho các tỉnh miền núi , biên giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương . Tuy nhiên , bối cảnh mở cửa , hội nhập cũng tạo ra những thách thức mới ngày càng lớn hơn như sức ép cạnh tranh gia tăng , đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý . Trung Quốc là một

295

nước đang phát triển có nền kinh tế quy mô lớn , có nhiều chính sách khuyến khích phát triển kinh tế biên mậu sẽ ảnh hưởng mạnh đến Việt Nam mà trước tiên là các tỉnh có chung đường biên giới , trong đó có Lạng Sơn . Về chủ quan , các tỉnh vùng trung du , miền núi Bắc Bộ nói chung và Lạng Sơn nói riêng nhìn chung là nghèo , tiềm lực khoa học - kỹ thuật chưa mạnh , kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển , trình độ nguồn nhân lực còn nhiều bất cập ... Đó là những khó khăn , thách thức rất lớn . Vì vậy , nếu Lạng Sơn không nắm bắt được thời cơ , phát huy lợi thế vượt qua thách thức để đẩy nhanh sự phát triển của tỉnh , thì sự tụt hậu so với cả nước và khu vực khác sẽ càng lớn hơn và bị động hơn trong quá trình hội nhập . Tình hình trên đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân các dân tộc của tỉnh Lạng Sơn nhiệm vụ nặng nề , phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa , để vững bước trên con đường đổi mới .

2. Một số định hướng lớn xây dựng và phát triển Lạng Sơn trong giai đoạn tới 2.1 . Tập trung cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững , đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tập trung phát triển thương mại, dịch vụ , du lịch và kinh tế cửa khẩu , coi đây là lĩnh vực mũi nhọn , khâu đột phá trong thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh . Khai thác lợi thế về vị trí địa lý , xây dựng một khu vực chung, bao gồm thành phố Lạng Sơn , thị trấn Đồng Đăng và các khu kinh tế cửa khẩu Tân Thanh , Chi Ma thành trung tâm thương mại , dịch vụ và du lịch của vùng và cả nước , làm cầu nối mở rộng giao lưu kinh tế , văn hoá với Trung Quốc và các nước . Nghiên cứu xây dựng khu vực mậu dịch , gia công sản xuất hàng hoá xuất khẩu với cơ chế đặc thù .

296

Đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp và nông thôn , chuyển dịch cơ cấu cây trồng , vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá , gắn với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ sản phẩm ; đưa tỷ trọng hàng hoá trong giá trị sản phẩm nông , lâm , ngư nghiệp năm 2010 lên 20% ; phát triển và khai thác tốt hơn nữa hiệu quả của kinh tế đồi rừng . Đối với công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp , tỉnh chủ trương đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp có thế mạnh như sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm sản , cơ khí nhỏ, tái chế và sản xuất hàng xuất khẩu ... với hướng ưu tiên cho phát triển công nghệ sạch , bảo đảm giữ gìn cảnh quan , môi trường . Xây dựng các khu công nghiệp tập trung và một số cụm công nghiệp tại những địa bàn thuận lợi . Xây dựng hệ thống thuỷ điện trên các sông suối có điều kiện để bổ sung điện năng phục vụ cho sản xuất và đời sống . 2.2. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài , tập trung đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm , các lĩnh vực mũi nhọn để làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp , nông thôn , các vùng đặc biệt khó khăn , trong đó đặc biệt là các xã vùng biên giới . Tiếp tục có giải pháp huy động các nguồn vốn đầu tư, đẩy mạnh xã hội hoá , huy động các nguồn lực trong xã hội để đầu tư các công trình dự án như làm đường giao thông nông thôn , kiên cố hoá kênh mương , xây dựng chuẩn quốc gia về y tế xã , xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia ... Tập trung vào vấn đề cải cách các thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa , một đầu mối " trong thu hút đầu tư với phương châm " đơn giản , thuận tiện , nhanh chóng, tin cậy " ; đây được xác định là giải pháp chủ đạo , có tính chất quyết định đến kết quả trong thu hút đầu tư . Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách ưu đãi , khuyến khích đầu tư đã ban hành ; chỉ đạo tốt công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng để tạo điều kiện thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư

297

trong và ngoài nước đến đầu tư, kinh doanh vào mọi lĩnh vực mà pháp luật cho phép với các đề án quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt , các khu công nghiệp , cụm công nghiệp và các khu đô thị mới ... 2.3. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội . Tập trung tạo bước chuyển biến rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo , phổ cập trung học cơ sở, xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia ; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội . Huy động mọi nguồn lực , đẩy mạnh xã hội hoá thực hiện mục tiêu xoá đói , giảm nghèo , kết hợp chương trình xoá đói , giảm nghèo với chương trình phát triển kinh tế - xã hội , giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc . 2.4. Là một tỉnh miền núi, biên giới , có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống , vấn đề bảo đảm an ninh, quốc phòng là nhiệm vụ hết sức quan trọng . Tập trung bảo vệ , giữ vững chủ quyền biên giới quốc gia . Tiếp tục xây dựng tỉnh Lạng Sơn thành khu vực phòng thủ vững chắc . Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, chủ động phòng ngừa và làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch . Đẩy mạnh đấu tranh phòng chống các loại tội phạm , tệ nạn xã hội , bảo đảm trật tự an toàn xã hội ; giữ vững ổn định chính trị, thường xuyên củng cố quốc phòng an ninh , xây dựng biên giới hoà bình , hữu nghị . 2.5. Quán triệt sâu sắc quan điểm " Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt" ; tập trung xây dựng hệ thống chính trị trong sạch , vững mạnh , bảo đảm thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn ; tăng cường công tác đấu tranh phê bình và tự phê bình , tạo sự đoàn kết , thống nhất ý chí trong các cấp uỷ đảng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân ; nêu cao cảnh giác , sẵn sàng làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch .

298

Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo , bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện , tuyệt đối của Đảng trên mọi lĩnh vực , đồng thời tập trung giải quyết các vấn đề trọng tâm , bức xúc của địa phương . Nâng cao hiệu lực , hiệu quả quản lý , điều hành của chính quyền các cấp . Phát huy được vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc vận động, tổ chức hội viên , đoàn viên và các tầng lớp nhân dân hoàn thành các nhiệm vụ chính trị trên từng địa bàn . Thực hiện đường lối , chính sách của Trung ương về chính sách dân tộc , tôn giáo . Chúng tôi nhận thức được rằng, để khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh của tỉnh , thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn , đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của giai đoạn cách mạng mới , Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn còn phải vượt lên những khó khăn , thách thức đang ở phía trước . Bằng nội lực được phát huy cao độ , toàn diện , cùng với đường lối đúng đắn , sáng tạo, sự quan tâm chỉ đạo , lãnh đạo của Trung ương Đảng, Nhà nước và Chính phủ , sự giúp đỡ tạo điều kiện của các bộ , ngành ở trung ương và sự đồng tình ủng hộ của các tỉnh , thành phố trong cả nước , chúng tôi tin tưởng rằng Lạng Sơn sẽ có bước đi nhanh và bền vững hơn . Với truyền thống cách mạng vẻ vang , với tinh thần đổi mới , chủ động , sáng tạo , Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Lạng Sơn đoàn kết một lòng quyết tâm cùng với cả nước ra sức thi đua thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .

299

ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ( Tham luận của đồng chí Trương Đình Tuyển , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Thương mại, đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình )

Trong Báo cáo chính trị có một mục nói về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng . Nếu nói đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì mới nói đến cách lãnh đạo và cách tổ chức thực hiện lãnh đạo , chưa phải đổi mới sự lãnh đạo . Thực tế cuộc sống và những khiếm khuyết trong hoạt động của hệ thống chính trị chúng ta đòi hỏi phải minh định lại nội dung lãnh đạo của Đảng . Chúng ta đang rơi vào tình trạng có nhiều việc , nhiều cấp uỷ đảng can thiệp quá sâu vào

hoạt động của chính quyền và các tổ chức trong hệ

thống chính trị . Điều ấy không những làm mất vai trò chủ động , tính sáng tạo và tinh thần tự chịu trách nhiệm của bản thân tổ chức ấy mà còn làm cho các cấp uỷ đảng , đặc biệt là cấp chiến lược không có thời gian để suy nghĩ , lãnh đạo những vấn đề cốt tử của đất nước . Điều đó dẫn đến một tình trạng rất không hay là : Nếu như sự việc diễn ra một cách thuận buồm xuôi gió thì thành tích thuộc về các cấp uỷ đảng , còn khuyết điểm thì không ai chịu trách nhiệm (vì tất cả đã được thông qua cấp uỷ) . Không phải Đại hội này mà nhiều Đại hội gần đây , chúng ta đã đặt ra vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng , nhưng kết quả và sự tiến bộ là rất hạn chế. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta không tìm ra

300

một cách làm , một phương thức tổ chức thích hợp , vấn đề ở chỗ chúng ta đặt ra chưa đúng, không biện chứng. Mối quan hệ giữa nội dung lãnh đạo và phương thức lãnh đạo là mối quan hệ trong một cặp phạm trù : nội dung và hình thức . Làm thế nào có hình thức tốt nếu chúng ta không minh định được nội dung? Chính vì chúng ta không minh định được nội dung cho nên chúng ta không thể tìm ra được tổ chức để cho nội dung ấy vận động . Vì vậy , quan điểm của chúng tôi là : cùng với đổi mới hình thức phải hoàn thiện nội dung lãnh đạo của Đảng . Nói gọn lại , là phải đổi mới sự lãnh đạo của Đảng . Xuất phát điểm là từ mục tiêu của chúng ta . Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh . Mục tiêu ấy chi phối hoạt động của Đảng . Để hướng vào mục tiêu ấy , Đảng lấy kinh tế làm trọng tâm lãnh đạo để giải quyết vấn đề dân giàu , Đảng lãnh đạo lực lượng vũ trang cùng với phát triển kinh tế để bảo đảm cho yêu cầu nước mạnh , nhưng Đảng phải lãnh đạo hoàn thiện thiết chế dân chủ để có thể xây dựng được một xã hội dân chủ . Đảng cũng phải lãnh đạo hoàn thiện Nhà nước pháp quyền để bảo đảm công bằng và văn minh trong xã hội . Từ đó , chúng tôi xin phát biểu hai vấn đề : - Lãnh đạo xây dựng một thiết chế dân chủ . - Lãnh đạo xây dựng một Nhà nước pháp quyền . Vấn đề thứ nhất , không phải ngẫu nhiên (có thể nói là rất nhiều lý do) , trong Tuyên ngôn độc lập Bác Hồ của chúng ta đã viện dẫn Tuyên

ngôn độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên ngôn nhân

quyền và dân quyền của Pháp . Trong đó , có một lý do là độc lập tự do và dân chủ là khát vọng của loài người . Đây là giá trị có tính phổ biến . Có thể mạnh dạn nói rằng đây là giá trị có ý nghĩa toàn nhân loại . Đảng của chúng ta đã lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc , giành độc lập cho đất nước , bây giờ trọng tâm của Đảng là lãnh đạo xây dựng một xã hội dân chủ .

301

Bác Hồ từng nói : cán bộ , đảng viên ... phải làm sao cho dân biết hưởng quyền dân chủ , biết dùng quyền dân chủ của mình , dám nói , dám làm ... đưa lại quyền dân chủ thực sự cho nhân dân . Ở đây , như chúng ta vẫn thường nói : dân chủ không chỉ là động lực , dân chủ còn là mục tiêu . Biết phát huy dân chủ sẽ phát huy được sáng kiến của mọi cá nhân , sẽ làm cho xã hội chúng ta trở nên năng động hơn . Chúng ta đều biết các sáng kiến trước ngày đổi mới đều xuất phát từ từng cá nhân . Cá nhân ấy có thể là người nông dân , cá nhân ấy có thể là một đồng chí lãnh đạo địa phương . Đảng của chúng ta tiếp nhận , tổng kết và hoàn thiện nó để hình thành đường lối đổi mới . Khi chúng ta nói : Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng thì chúng ta không chỉ quan niệm rằng nhân dân làm theo sự lãnh đạo của Đảng , nhân dân thực hiện sự chỉ đạo của Đảng , chúng ta phải đặt nhân dân vào vị trí chủ thể của cách mạng . Nhân dân là những người đưa ra sáng kiến cách mạng . Khi nói cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, điều ấy dẫn đến sự phát triển lôgíc là phải phát triển dân chủ cho nhân dân . Ở đây , cũng cần làm rõ mối quan hệ dân chủ và tập trung . Nhiều đồng chí nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh nói rằng , Bác Hồ từng nói dân chủ tập trung chứ không phải tập trung dân chủ . Trong các đồng chí lãnh đạo của chúng ta cũng có đồng chí từng đề xuất dùng khái niệm dân chủ tập trung thay vì tập trung dân chủ . Tôi quan niệm rằng , đặt dân chủ trước hay tập trung trước cũng có những ý nghĩa nhất định , nhưng không phải là quan trọng nhất . Điều quan trọng nhất là phải xác định rõ vị trí của từng cụm từ . Đối với chúng tôi , dân chủ vừa là điểm xuất phát , vừa là đích đến ; còn tập trung không có vị thế bằng dân chủ , tập trung chỉ là nguyên tắc để giải quyết những ý kiến khác nhau trong một xã hội dân chủ để bảo đảm dân chủ cho đa số . Vị thế của hai cụm từ dân chủ và tập trung khác nhau . Do đó , chúng ta phải thật sự mở rộng dân chủ . Lênin từng nói một câu

302

mà chúng ta rất đáng suy nghĩ : Sự rập khuôn cứng nhắc và ý định gò theo sự thống nhất từ trên ban xuống không dính dáng gì đến tập trung dân chủ và chủ nghĩa xã hội cả . Sự thống nhất trong những vấn đề cơ bản , căn bản , chủ yếu chẳng những không làm tổn hại mà trái lại còn được bảo đảm bằng muôn hình vạn trạng trong chi tiết , trong những đặc điểm địa phương, trong cách đề cập vấn đề , trong các biện pháp thực hành , giám sát . Lênin rất quan tâm đến vấn đề dân chủ và rất tôn trọng sáng kiến của địa phương, tôn trọng tính phong phú , đa dạng của hoạt động thực tiễn và phê phán lối gò ép , rập khuôn cứng nhắc từ trên ban xuống . Phát huy quyền dân chủ của người dân sẽ tạo tiền đề quan trọng để nhân dân giám sát hoạt động của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước , giám sát cán bộ , đảng viên . Đây là yêu cầu bức thiết trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng , lãng phí hiện nay . Vì vậy , theo quan điểm của chúng tôi , Đảng phải dành rất nhiều thời gian để hoàn thiện thiết chế dân chủ . Chúng ta đã làm được một số việc theo hướng này, nhưng chưa phải là ý thức thường trực của toàn Đảng . Phải lấy việc phát huy dân chủ , xây dựng một xã hội dân chủ thành lý tưởng của Đảng. Xây dựng chủ nghĩa cộng sản phải hàng trăm năm mới đạt được , thậm chí còn lâu hơn , nhưng lý tưởng dân chủ là một nội dung có thể chuyển thành hiện thực trong xã hội của chúng ta dưới sự lãnh đạo của Đảng . Đảng phải thích ứng với sự lãnh đạo một xã hội dân chủ . Đảng phải tích luỹ kinh nghiệm cho mình trong việc lãnh đạo một xã hội dân chủ . Làm được như thế thì bản lĩnh của Đảng sẽ được nâng cao . Đảng sẽ bớt quan liêu , Đảng sẽ gần dân hơn và cùng với sự phát triển kinh tế để nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân , Đảng sẽ được nhân dân tin yêu và mãi mãi suy tôn là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng . Vấn đề thứ hai là, chúng ta phải hết sức quan tâm đến việc xây

303

dựng một xã hội pháp quyền . Bản thân xã hội pháp quyền là tạo điều kiện để bảo đảm dân chủ . Có xã hội pháp quyền mới bảo đảm được cho xã hội công bằng và văn minh . Không có xã hội pháp quyền , không có Nhà nước pháp quyền thì không thể có xã hội công bằng và văn minh . Ngay từ năm 1919 , Bác Hồ đã nói : " Trăm đều phải có thần linh pháp quyền " . Bác coi pháp quyền là phép thần linh để quản lý xã hội . Tinh thần dân chủ , tư tưởng pháp quyền hình thành trong Bác rất sớm và có thể nói đó là điều nung nấu mãi trong lòng Bác . Chính vì vậy , ngay sau ngày độc lập , trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, trong lúc chính quyền cách mạng đang như ngàn cân treo sợi tóc , Bác đã đặt ra yêu cầu là chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ vừa bảo đảm tính dân chủ cho xã hội , vừa bảo đảm tính pháp quyền của Nhà nước . Bác đã đặt ra ngay từ lúc đó . Bộ Chính trị có Nghị quyết về cải cách tư pháp . Đó là một hướng tích cực cho yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền . Nhưng chưa đủ . Khái niệm Nhà nước pháp quyền rộng hơn khái niệm tư pháp . Cho nên , tôi cho rằng, chúng ta , đặc biệt là cấp Trung ương, Bộ Chính trị , phải hết sức quan tâm , coi trọng việc hoàn thiện một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Chúng ta quản lý Nhà nước bằng pháp luật . Pháp luật là chuẩn mực chi phối mọi hành vi của các công dân , là khuôn vàng , thước ngọc đối với các công chức nhà nước và các đồng chí hoạt động trong hệ thống chính trị . Nếu chúng ta không làm được điều này thì chúng ta không thể nào thực hiện được lý tưởng của chúng ta , mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ, văn minh . Sau khi minh định rõ được nội dung lãnh đạo của Đảng , theo chúng tôi , nội dung ấy bao gồm mấy điểm quan trọng sau : 1. Đảng lãnh đạo để bảo đảm định hướng của sự phát triển và xác định các mối quan hệ lớn nhằm bảo đảm định hướng đó . Đảng không can thiệp vào những công việc cụ thể , vào những dự án cụ thể nhưng phải xác định cho được những định hướng lớn của sự

304

phát triển thông qua việc xác định các mối quan hệ cơ bản để bảo đảm định hướng . 2. Đảng lãnh đạo công tác an ninh , quốc phòng và thống lĩnh các lực lượng vũ trang để bảo đảm cho chúng ta mãi mãi giữ được độc lập và tự do ( độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia ) . 3. Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại để bảo đảm môi trường hoà bình cho việc xây dựng đất nước , đặc biệt trong bối cảnh quốc tế phức tạp và vận động rất nhanh trong thời đại hiện nay . 4. Đảng lãnh đạo xây dựng một thiết chế dân chủ để bảo đảm quyền dân chủ cho nhân dân , lý tưởng của Đảng. Độc lập và dân chủ cho nhân dân là lý tưởng mà chúng ta suốt đời phấn đấu . Chúng ta đã chiến đấu để giành độc lập cho dân tộc , bây giờ chúng ta phải chăm lo xây dựng một xã hội dân chủ . 5. Đảng phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền để quản lý xã hội . Tất nhiên , Đảng phải lãnh đạo công tác cán bộ . Đảng phải minh định cho được 5 nội dung quan trọng này và những việc cụ thể khác phải để cho các tổ chức nhà nước , các tổ chức kinh tế - xã hội chủ động làm và chịu trách nhiệm , Đảng kiểm tra và giám sát . Có như vậy , từ đó chúng ta mới định ra được phương thức và cách lãnh đạo thế nào . Nội dung có rõ thì cách lãnh đạo mới đúng , tổ chức lãnh đạo mới khoa học . Lâu nay , chúng ta lủng củng, chồng chéo , nói mãi mà không sửa chính vì chúng ta không ấn đúng nút cần phải ấn , chúng ta làm rất thiếu biện chứng , chúng ta không xem xét phạm trù giữa hình thức và nội dung .

305

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ CHỦ ĐỀ ĐẠI HỘI X VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ , ĐẢNG VIÊN ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Đình Bin , Đại sứ nước ta tại Cộng hoà Pháp , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Đối ngoại Trung ương và Đảng bộ ngoài nước )

Trước hết , cho phép tôi được chuyển tới Đại hội của chúng ta lời chúc mừng nhiệt liệt , niềm vui và đặc biệt là niềm hy vọng, sự chờ đợi và niềm tin của 184 đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đang sinh hoạt tại 16 chi bộ thuộc Đảng bộ của chúng tôi ở Pháp và cũng là của 3.500 lưu học sinh Việt Nam và 300.000 đồng bào đang làm ăn , sinh sống ở Pháp . Theo tinh thần dân chủ , thẳng thắn và cởi mở, tôi xin phép được trình bày với Đại hội 2 ý kiến cụ thể mà tôi đã phát biểu tại Đoàn đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Đối ngoại Trung ương và Đảng bộ ngoài nước . Hai ý kiến này rất quan trọng , rất lớn nhưng rất giản dị thôi : Ý kiến thứ nhất là , về chủ đề của Đại hội . Có đồng chí nói với tôi là chủ đề này đã trải qua quá trình chuẩn bị của toàn Đảng ta ở cấp lãnh đạo cao nhất , của Trung ương khoá IX , của tất cả các bộ não , trí tuệ của hơn 3,1 triệu đảng viên , có sự đóng góp của đông đảo quần chúng nhân dân ở trong và ngoài nước . Vậy bây giờ còn phát biểu gì nữa ? Tuy vậy , tôi vẫn xin mạnh dạn phát biểu ý kiến của cá nhân tôi .

306

Trước hết , tôi cho rằng : chủ đề của mỗi Đại hội phải chỉ ra được nhiệm vụ trung tâm , đặc thù của nhiệm kỳ Đại hội đó để giúp cho toàn Đảng, toàn dân quán triệt và thực hiện . Chủ đề hiện nay khá toàn diện , khá đầy đủ : " Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển " . Tôi thấy chủ đề này đã có điểm mới so với các đại hội trước kia , đã chỉ ra được nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của nhiệm kỳ này là sau 5 năm phải đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển . Đó là mục tiêu bao trùm để toàn Đảng , toàn dân ta tập trung thực hiện . Còn 3 vế ở trên thì đúng quá nhưng không phải là đặc trưng của riêng nhiệm kỳ này : " Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới" , 3 vế này là nhiệm vụ thường xuyên , rất đúng, chúng ta phải làm và không thể dừng lại được . Song, đây không phải là đặc thù của riêng nhiệm kỳ này . Có một nhiệm vụ , chúng ta cần chỉ ra là đặc thù của 5 năm tới đây . Nếu chúng ta làm thật tốt nhiệm vụ đó thì chắc chắn là sẽ nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng và sẽ đoàn kết được sức mạnh của nhân dân dễ hơn , sẽ thực hiện được công cuộc đổi mới một cách toàn diện hơn và mới có thể thực hiện được mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển . Đó là nhiệm vụ gì ? Chắc chắn 1.176 đại biểu đều đồng tình với tôi . Chúng ta đều nhận thức rõ , nhưng tại sao chúng ta không chỉ ra? Đó là nhiệm vụ chống tham nhũng . Tôi nhớ rất rõ là tại Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII , năm 1994 , lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm và nhận định về 4 nguy cơ . Lúc đó , tại Đoàn , tôi đã phát biểu rằng cần chỉ ra trong 4 nguy cơ đó , nguy cơ nào là cốt lõi nhất , cơ bản nhất mà Đảng ta phải quán triệt để chiến thắng . Tôi cho rằng trong 4 nguy cơ đó thì nguy cơ tham nhũng , tiêu cực , tha hoá là nguy cơ cốt lõi . Chúng ta đều thấy trong mọi nhân tố thì quyết

307

định nhất là nhân tố con người , là nhân tố cán bộ ở tất cả các cấp . Đó là chân lý muôn thuở , muôn đời . Đảng ta muốn lãnh đạo được thì trước tiên Đảng ta phải trong sạch , vững mạnh . Do vậy , vấn đề chống tham nhũng hiện nay là vấn đề cực kỳ bức xúc . Tất cả các văn kiện của Đảng ta tại Đại hội X đều khẳng định như vậy . Nhân dân ta đòi hỏi chúng ta tập trung giải quyết vấn đề này . Tôi thấy rằng, trải qua 12 năm đổi mới , 2,5 nhiệm kỳ từ 1994 đến nay , chúng ta đã nỗ lực nhiều , đã đưa ra đầy đủ các luật và nhiều biện pháp , có Ban đặc biệt thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2) , Chính phủ từng đưa ra một Ban chống tham nhũng nhưng đến nay tham nhũng vẫn tồn tại và nghiêm trọng hơn . Tôi nghĩ là toàn dân đang mong chờ Đại hội chúng ta đề ra các biện pháp đặc biệt , đầy đủ , có hiệu quả để đẩy lùi tham nhũng . Tôi tin rằng đẩy lùi được tham nhũng thì mới có thể nâng cao được vai trò lãnh đạo của Đảng , mới có thể nâng cao được sức chiến đấu của Đảng, mới có thể phát huy tốt hơn , đoàn kết tốt hơn sức mạnh của toàn dân tộc và thực hiện được nhiệm vụ của nhiệm kỳ này là đưa nước ta ra khỏi tình trạng một nước chậm phát triển . Cho nên tôi đề nghị bổ sung thêm " đẩy lùi tham nhũng " vào câu đầu tiên của chủ đề Đại hội . Như vậy sẽ chỉ ra rõ hơn nhiệm vụ sắp tới . Nếu chúng ta thống nhất được thì đó là kim chỉ nam hành động của toàn Đảng , toàn dân ; đáp ứng được nguyện vọng thiết tha , mong mỏi của toàn dân và cũng là một thông điệp rất tốt của chúng ta gửi đến cộng đồng quốc tế. Tôi đề nghị viết như thế này (có thể về câu từ thì Tiểu ban văn kiện và Trung ương khoá X sẽ hoàn chỉnh thêm ) : " Đẩy lùi tham nhũng , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển " . Như thế, sẽ thể hiện rõ dấu ấn của Đại hội X này .

· Ý kiến thứ hai , cũng về một vấn đề rất cụ thể . Tôi rất vui mừng là bài phát biểu của tôi tiếp theo bài phát biểu của đồng chí

308

Vũ Quốc Hùng về nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân , chống suy thoái đạo đức . Vấn đề này cũng liên quan và cũng

là си thể hoá vấn đề chống tham nhũng . Nó chính là cội nguồn sâu xa của tham nhũng , tiêu cực . Trong toàn bộ văn kiện của Đại hội X , đặc biệt là trong Báo cáo xây dựng Đảng , Báo cáo về thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu ( lần 2 ) cũng đã nói rõ . Thực ra ý kiến của tôi không có gì mới lắm nhưng tôi đề nghị nâng nó lên đúng tầm của nó . Xin thú thực với các đồng chí , trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội IX , chúng tôi cùng với một số đồng chí Trung ương khoá VIII cũng đã kiên trì ý kiến này nhưng cho đến nay vẫn chưa được chấp nhận . Vừa qua , thực hiện chỉ thị của Trung ương, Đảng bộ của chúng tôi tại Pháp , trong những ý kiến đóng góp cho văn kiện Đại hội X , chúng tôi cũng đã điện và chuyển về cho Ban cán sự Đảng ngoài nước nhưng cho đến nay chúng tôi thấy vẫn chưa được ghi nhận . Tôi xin phát biểu trước Đại hội để các đồng chí xem xét . Lâu nay chúng ta nói quá nhiều và khẳng định là : xây dựng Đảng ta trong sạch , vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức . Ba mặt, nhưng tôi cho rằng thiếu một mặt cực kỳ quan trọng . Vào thời điểm này, vừa qua , sắp tới và đặc biệt là khoá này, chúng ta phải khẳng định đấy là điểm then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng là then chốt nhưng then chốt trong then chốt là vấn đề gì ? Đó là cái đồng chí Vũ Quốc Hùng vừa nói , đó là đạo đức . Tôi nhớ rất kỹ là bài thơ do Bác Hồ kính yêu của chúng ta viết nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng có câu : " Đảng ta là đạo đức , là văn minh " . Thật là tuyệt vời ! Càng suy nghĩ càng thấy ý nghĩa đầy đủ , sâu xa , bao quát của vần thơ đó của Bác Hồ . Cho nên , trong 6 nhiệm vụ , 6 giải pháp lớn của Báo cáo về thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu (lần 2 ) trong giai đoạn sắp tới cũng thể hiện rất coi trọng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ đảng viên của chúng ta , đặc biệt là cán

bộ giữ chức vụ càng cao càng phải

309

gương mẫu . Trong 9 nhiệm vụ và giải pháp chính của Báo cáo xây dựng Đảng cũng nêu ra như vậy , tôi cũng rất tán thành . Cho phép tôi được nói đôi lời tâm sự . Gần 44 năm qua , tôi có vinh dự và trách nhiệm là đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam , 39 năm công tác trong ngành ngoại giao , trong đó có 17 năm tôi sống và làm việc ở 4 địa bàn khác nhau ở nước ngoài , đặc biệt là gần 10 năm có chức , có quyền (Thứ trưởng Bộ Ngoại giao , 4 năm cuối cũng là Thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài ) , rất nhiều cám dỗ , cạm bẫy , rất khủng khiếp các đồng chí ạ . Tôi vượt qua được là nhờ tôi luôn nhớ và thực hiện lời Bác Hồ dạy : " Cần kiệm liêm chính , chí công vô tư " và lời ông nội tôi dạy : "Đói cho sạch , rách cho thơm " và "Giấy rách phải giữ lấy lề" . Tôi nghĩ rằng , sự thực trong những vấn đề quyết định hiện nay để xây dựng Đảng ta trong sạch , vững mạnh thì cái căn bản nhất là sự phấn đấu liên tục , rèn luyện , tu dưỡng của mỗi một con người chúng ta . Hàng ngày trong cuộc sống , trong công tác , trong mối quan hệ đầy rẫy thách thức , thử thách , khi nào cái tôi vượt lên , chiến thắng thì coi như hết . Lúc đó thì còn gì là định hướng xã hội chủ nghĩa nữa ? Chệch hướng còn là cái gì ? Lúc đó thì " diễn biến hoà bình " , âm mưu dụ dỗ , mua bán , ... tất cả các thứ rất nham hiểm , kinh khủng của kẻ địch còn là cái gì ? Như thế thì làm sao mà đẩy lùi được nguy cơ đất nước ta ngày càng chậm phát triển . Cho nên tôi vẫn trở lại ý kiến này vì nó rất cần trong giai đoạn hiện nay , đặc biệt là trong 5 năm tới . Đại hội X này cần chỉ ra yêu cầu đó . Do vậy , trong 6 biện pháp để thực hiện Nghị quyết Trung ương sáu ( lần 2 ) cũng như 9 nhiệm vụ và giải pháp trong Báo cáo xây dựng Đảng, về cơ bản tôi nhất trí nhưng cần nhấn mạnh hơn nữa nhiệm vụ đặc biệt chống chủ nghĩa cá nhân . Quả thật , các đồng chí thấy chủ nghĩa cá nhân nó ghê gớm như thế nào . Nó đang len lỏi trong chúng ta , cũng như bệnh tham nhũng đang len lỏi trong cơ thể Đảng ta ,

310

đang đục khoét , phá vỡ từng ngày, từng giờ tất cả những gì lành mạnh trong con người chúng ta . Chúng ta cũng thấy rõ ràng là nếu không giải quyết được vấn đề này thì sự nghiệp của chúng ta sẽ tự tiêu tan . Chúng ta thấy Liên Xô và chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu sup đổ, Đảng ta cũng nhận định rồi , chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan ? Rõ ràng, chính là do bản thân những đảng đó , những người cộng sản đó , những sai lầm , khuyết điểm trong cái gọi là " cải cách mở cửa" , chứ không phải nhân tố bên ngoài quyết định . Cho nên trở lại nguyên lý muôn đời đúng: sự nghiệp cách mạng của ta thắng lợi trước hết là do có sự lãnh đạo của Đảng ta . Đảng ta độc lập tự chủ , suy nghĩ bằng cái đầu của mình . Đó là chính . Học tập gì thì học tập nhưng phải vận dụng thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam , phải sáng tạo , phải độc lập , tự chủ , phải vững vàng. Điều đó đã được chứng minh là quá đúng . Giữa nội lực và ngoại lực thì nội lực là quyết định . Tôi nghĩ rằng để nâng cao chất lượng đảng viên thì điều quyết định cũng là sự phấn đấu , rèn luyện , tu dưỡng, tự chỉnh lý , đấu tranh với bản thân hàng ngày của mỗi đảng viên với tất cả những gì không phải tính chất con người cộng sản . Bởi vậy , một lần nữa tôi thiết tha đề nghị trong tất cả các văn kiện của Đại hội này , thay vì nói : " Xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức" , đề nghị ghi thêm một mặt thứ tư là đạo đức , tức là : " Xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh về chính trị , tư tưởng , đạo đức và tổ chức" .

311

TÌNH HÌNH VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An )

Chúng ta đều biết , tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng , là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở . Với vị trí quan trọng như thế nên trong thời gian qua , các cấp uỷ ở Nghệ An đã rất quan tâm tới việc chỉ đạo để củng cố , xây dựng tổ chức cơ sở đảng . Tại Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X có đánh giá : " Những thành tựu đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX là rất quan trọng" , trong thành tích chung đó , sự đóng góp của các tổ chức cơ sở đảng là rất lớn . Về các tổ chức cơ sở đảng ở Nghệ An , chúng tôi thấy nổi bật một số vấn đề sau đây : 1. Phần lớn các tổ chức cơ sở đảng đã nhận thức đúng vị trí , vai trò , chức năng, nhiệm vụ , đã có nhiều biện pháp tương đối hữu hiệu , hợp lý để nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu , nâng cao năng lực , phẩm chất đội ngũ cán bộ , đảng viên . Trên cơ sở quy định của Điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước , nghị quyết của cấp uỷ cấp trên , các tổ chức cơ sở đảng Nghệ An đã cụ thể hoá thành nghị quyết , chương trình , kế hoạch để lãnh đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội , giữ vững quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị cơ sở . 2. Nhiều tổ chức cơ sở đảng yếu kém đã được cấp uỷ cấp trên quan tâm lãnh đạo chỉ đạo , củng cố , đã hạn chế căn bản tình trạng các xóm , bản chưa có đảng viên , chưa có chi bộ ; tăng cường đào tạo

312 ,

cán bộ cơ sở , tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp đại học , cao đẳng đưa về xã và luân chuyển cán bộ từ huyện về cho cơ sở . 3. Công tác kiểm tra của các tổ chức cơ sở đảng được tăng cường, đã góp phần phát hiện , ngăn chặn , xử lý những sai phạm của một số cán bộ , đảng viên ; có nhiều hình thức để Mặt trận Tổ quốc , các đoàn thể và nhân dân tích cực tham gia xây dựng tổ chức cơ sở đảng, giám sát hoạt động của cán bộ , đảng viên . Nhờ được sự quan tâm lãnh đạo , chỉ đạo xây dựng, củng cố nên tổ chức cơ sở đảng ở Nghệ An trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực , xuất hiện một số điển hình và kinh nghiệm tốt . Tuy vậy , bên cạnh những kết quả đạt được , các tổ chức cơ sở đảng Nghệ An cũng còn bộc lộ một số tồn tại , hạn chế như sau : · Ở nhiều tổ chức cơ sở đảng, việc phổ biến , tuyên truyền và đưa nghị quyết cấp trên vào cuộc sống chưa đạt yêu cầu . Nhiều nghị quyết mới chỉ đến được tới đảng viên mà chưa đến được tới quần chúng; việc

triển khai

thực hiện

nghị

quyết ,

xây dựng

chương trình hành động thường thiếu cụ thể , chất lượng thấp ; việc xây dựng các nghị quyết chuyên đề thường chưa kịp thời , chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình , nhiệm vụ địa phương . Vì vậy , ảnh hưởng không tốt đến việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương , cơ quan , đơn vị . ·- Nội dung, phương pháp sinh hoạt chậm đổi mới . Do tổ chức đảng và đảng viên đều thiếu thông tin nên tính định hướng và khả năng xử lý không cao , thậm chí có tình trạng đảng viên lúng túng hoặc phân tâm trước một số thông tin và hiện tượng xã hội . Sinh hoạt ở một số tổ chức cơ sở đảng còn hình thức . Một số cơ sở đảng khối cơ quan có tình trạng lẫn lộn giữa sinh hoạt chuyên môn với sinh hoạt đảng ; đảng viên có chức vụ thường ít sinh hoạt , hoặc sinh hoạt với " tư cách " như là đại biểu cấp trên . Sinh hoạt của tổ chức cơ sở đảng khối nông thôn có tình trạng " lạc đề" , quan tâm nhiều đến vấn đề của cấp khác , nơi khác . Một số chi bộ cơ sở trong các công ty tư nhân gặp khó khăn trong việc bảo đảm điều kiện để sinh hoạt đảng .

313

· Việc đánh giá đảng viên , tổ chức cơ sở đảng ở một số nơi không đúng thực chất . Đảng viên xếp loại hoàn thành nhiệm vụ và chi bộ được xếp loại trong sạch , vững mạnh chiếm tỷ lệ cao nhưng tình hình cơ sở không có chuyển biến (kinh tế không phát triển , sản xuất kinh doanh thua lỗ , một số hiện tượng tiêu cực như tham nhũng , cờ bạc ... không được phát hiện , ngăn chặn ... ) .

- Các tổ chức cơ sở đảng ở vùng sâu , vùng xa , vùng đồng bào có đạo số lượng đảng viên ít , khả năng lãnh đạo hạn chế và đang gặp khó khăn nhiều mặt . - Tính chiến đấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng, đảng viên không cao . Nhiều sai phạm , vi phạm của tổ chức và đảng viên , nhất là tệ tham nhũng, lãng phí không được phát hiện sớm từ tổ chức cơ sở đảng mà thường là do khiếu nại , tố cáo của nhân dân hoặc do thanh tra , kiểm tra của các cơ quan chức năng . Những sai phạm của đảng viên tại từng tổ chức cơ sở đảng là tổ chức đảng trực tiếp với dân nên ảnh hưởng đến uy tín , vai trò của Đảng rất lớn . Thực tế, các loại hình tổ chức cơ sở đảng hiện nay đang đặt ra một số vấn đề sau đây : Vị trí pháp lý , chức năng và phương thức lãnh đạo của các loại hình tổ chức cơ sở đảng . Nội dung sinh hoạt và tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng . Năng lực phẩm chất của đảng viên . Đây là những vấn đề cần phải được tiếp tục làm rõ và có giải pháp đồng bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng .

Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới , chúng tôi đề nghị một số giải pháp như sau : 1. Cần rà soát , đánh giá chính xác , đúng thực chất các loại hình tổ chức cơ sở đảng hiện có cả về chức năng, nhiệm vụ , cả về kết quả lãnh đạo để khắc phục kịp thời những hạn chế , yếu kém ; điều

314

chỉnh bổ sung và sớm ban hành các quy định đối với những loại hình tổ chức cơ sở đảng mới , không để dẫn đến tình trạng lúng túng, bị động, ảnh hưởng không tốt đến vị trí, vai trò và yêu cầu nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. 2. Tổ chức việc học tập , nâng cao nhận thức , đề cao trách nhiệm của cấp uỷ và đảng viên về thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình mà mình đang sinh hoạt . Trong thực tế , một số đảng viên đang đồng nhất chức năng, nhiệm vụ của các loại hình trong khi các loại hình khác nhau có những quy định khác nhau . 3. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng là hai mặt của một vấn đề . Nâng cao năng lực lãnh đạo hàm chứa cả việc thực hiện tốt chức năng , nhiệm vụ , đổi mới phương thức lãnh đạo , hình thức hoạt động . Mục tiêu phải đạt được là : lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị ; quản lý , giáo dục rèn luyện đảng viên ; lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh . Muốn vậy phải : Đổi mới phương pháp triển khai thực hiện nghị quyết của cấp trên . Học tập nghị quyết phải gắn với việc xây dựng chương trình hành động. Chương trình hành động phải làm rõ được các vấn đề : thực hiện những nội dung gì , ai làm , làm như thế nào , bao giờ thì xong, lấy nguồn lực nào và phải có chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm . Phải cải tiến nội dung sinh hoạt . Qua sinh hoạt để nắm tư tưởng đảng viên và tâm trạng xã hội ; nâng cao nhận thức cho đảng viên ; xử lý những vấn đề bức xúc trong đảng viên và nhân dân thông qua thông tin , đối thoại . Mục tiêu cần đạt được là , tổ chức làm công tác tư tưởng cho đảng viên để đảng viên làm được công tác tư tưởng cho dân . Đồng thời với việc cải tiến nội dung là phải bảo đảm nghiêm túc , chặt chẽ chế độ sinh hoạt đảng bộ và chi bộ . Kinh nghiệm cho thấy , nơi nào không đảm bảo chế độ sinh hoạt định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng thì nơi đó hoặc là có "vấn đề " hoặc sẽ tích tụ để dẫn đến không bình thường .

315

Gắn việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên với việc đánh giá xếp loại đảng viên . Thông qua các phong trào cách mạng của quần chúng để củng cố và nâng cao chất lượng các đoàn thể , phát hiện , bồi dưỡng và phát triển đảng viên . Phân công đảng viên sinh hoạt trong các tổ chức quần chúng để thực hiện vai trò cầu nối giữa Đảng với dân (theo quy định về việc thi hành Điều lệ Đảng thì mỗi đảng viên ít nhất phải sinh hoạt trong một tổ chức quần chúng) . Thực hành rộng rãi , thực chất , thường xuyên nguyên tắc tập trung dân chủ để đảm bảo sự đoàn kết nhất trí trong Đảng , làm cơ sở cho sự đồng thuận trong dân ; thường xuyên tự phê bình và phê bình , giúp nhau tiến bộ , hạn chế sai phạm , tiêu cực . Cấp uỷ đảng cơ sở phải thực hiện nghiêm chỉnh quy chế làm việc và chương trình công tác . Đặc biệt , thông qua tổ chức cơ sở đảng để tăng cường đấu tranh với tệ quan liêu , tham nhũng , lãng phí , là vấn đề mà các tầng lớp nhân dân hết sức quan tâm , qua đó góp phần quan trọng nâng cao được vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng . 4. Các cấp trên cơ sở phải quy định , hướng dẫn việc đăng ký , phân loại , xếp loại tổ chức cơ sở đảng . Việc đăng ký và đề nghị cấp trên công nhận tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh phải được lấy ý kiến của đảng viên và cốt cán các đoàn thể . Như thế vừa đề cao được trách nhiệm , bảo đảm tính dân chủ trong sinh hoạt đảng và sự đồng tình , ủng hộ của dân . Không nên quá gò ép tỷ lệ các danh hiệu, dẫn tới tình trạng đánh giá không thực chất hoặc đối phó . 5. Cần có sự quan tâm đặc biệt cho loại hình tổ chức cơ sở đảng ở những xã vùng sâu , vùng xa , vùng đặc thù cả về phát triển đảng viên , bồi dưỡng , đào tạo cán bộ , chế độ , chính sách cán bộ , điều kiện cơ sở vật chất phục vụ nhiệm vụ và các dự án phát triển kinh tế - xã hội , bảo đảm quốc phòng - an ninh .

316

6. Tăng cường đầu tư đào tạo cán bộ cho cơ sở để đảm bảo số lượng và chất lượng, nâng cao trách nhiệm cán bộ các xã , phường, thị trấn phù hợp với các loại hình cơ sở với những đặc điểm và điều kiện khác nhau . Thực hiện tốt việc luân chuyển cán bộ huyện về giữ chức vụ chủ chốt cơ sở , nhất là những cơ sở yếu kém và luân chuyển cán bộ từ xã lên huyện. Tổ chức lấy tín nhiệm cán bộ theo định kỳ hoặc theo yêu cầu để phát huy tính dân chủ , thái độ trách nhiệm và hiệu quả giám sát của nhân dân . Đào tạo , bồi dưỡng và sử dụng cán bộ vừa có ý nghĩa trước mắt và lâu dài vừa là khâu quan trọng có tính quyết định trong toàn bộ công tác của cơ sở . Vì thực tế cho thấy , không phải tất cả những yếu kém của tổ chức , sai phạm trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ đều do động cơ, phẩm chất , đạo đức mà còn do trình độ , hiểu biết , khả năng thực hành nhiệm vụ . Vì thế phải có kế hoạch cụ thể để bồi dưỡng , đào tạo cho cán bộ cơ sở một cách thiết thực , hiệu quả . Chăm lo xây dựng , củng cố tổ chức cơ sở đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên , liên tục của cả hệ thống tổ chức của Đảng và mọi đảng viên .

317

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN Ở DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN , DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ( Tham luận của đồng chí Trần Đình Thành , Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Nai , đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai)

1. Đồng Nai là một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam , thực hiện chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và Nhà nước , những năm qua , trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã kêu gọi và thu hút được 728 dự án đầu tư nước ngoài , với tổng vốn 8,2 tỷ USD , có 4.050 doanh nghiệp trong nước với tổng vốn trên 10.000 tỷ đồng . Những doanh nghiệp đi vào hoạt động, thu hút giải quyết việc làm cho trên 230.000 lao động , đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai . Như vậy , khu vực doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh có một vị trí rất quan trọng đối với quá trình phát triển của tỉnh Đồng Nai . Tuy nhiên , trong giai đoạn đầu của sự phát triển , các doanh nghiệp này lại hầu như chưa có các tổ chức đảng , tổ chức công đoàn , Đoàn Thanh niên , Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam . Do đó , để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp , giúp cho các doanh nghiệp phát triển lành mạnh , đúng hướng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước thì việc xây dựng và nâng

318

cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và cấp bách đối với Đảng bộ tỉnh Đồng Nai . Ngày 26-11-1996 , Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 07/CT- TW về tăng cường công tác xây dựng đảng và các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Đây là một chủ trương rất quan trọng và kịp thời đáp ứng cho yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và hoạt động của các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp ở Đồng Nai . Nhận thức được điều đó , Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã nỗ lực , tập trung chỉ đạo quán triệt và tổ chức thực hiện . Sau 9 năm thực hiện Chỉ thị số 07/ CT - TW của Bộ Chính trị , Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã đạt được kết quả bước đầu như sau :

· Về tổ chức đảng : đã thành lập được 81 tổ chức cơ sở đảng với 1.502 đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có 24 chi bộ cơ sở trong doanh nghiệp tư nhân với 157 đảng viên , 8 chi bộ ở trong doanh nghiệp có vốn nhà nước liên doanh với nước ngoài với 99 đảng viên , 42 chi , đảng bộ cơ sở trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước với 1.085 đảng viên , đặc biệt đã thành lập được 7 tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp 100 % vốn đầu tư nước ngoài với 161 đảng viên .

· Về tổ chức công đoàn: đã thành lập được 485 tổ chức công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với 179.770 đoàn viên .

Về tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Chi hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam : đã thành lập được 66 chi đoàn cơ sở với 3.033 đoàn viên và 15 chi hội với 4.120 hội viên . 2. Qua thực tế triển khai và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 07/CT-TW , Đảng bộ tỉnh Đồng Nai nhận thấy việc xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn

319

đầu tư nước ngoài là nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng, rèn luyện đội ngũ giai cấp công nhân trong một khu vực kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, hướng tới mục tiêu chung là nhằm tác động tích cực, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển đúng định hướng của Đảng, hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh và đúng pháp luật , giải quyết hài hoà các lợi ích, đóng góp ngày càng nhiều hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Tuy nhiên , trong quá trình thực hiện , vấn đề đặt ra là việc xây dựng tổ chức đảng , đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp nói trên vẫn còn nhiều khó khăn , vướng mắc , đó là : Mặc dù đã có Chỉ thị số 07/ CT - TW của Bộ Chính trị , nhưng những quy định có giá trị pháp lý , những hướng dẫn của Trung ương , những chủ trương, chính sách hỗ trợ cho việc xây dựng tổ chức đảng , đoàn thể cũng như xây dựng đội ngũ cán bộ cấp uỷ đảng , cán bộ chủ chốt công đoàn chưa đầy đủ , đồng bộ . Việc xây dựng các tổ chức chủ yếu là dựa vào công tác thuyết phục , động viên giới chủ , trong khi chủ đầu tư đều là người từ các nước tư bản đến , hầu hết đều xa lạ , không hiểu biết gì về tổ chức đảng, đoàn , công đoàn của ta ; thậm chí hiểu sai lệch về vai trò , nhiệm vụ của tổ chức đảng, đoàn thể ; cho rằng có các tổ chức này sẽ chia quyền hoặc gây cản trở , khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ . Vì vậy, không ít nhà đầu tư đã cố tình né tránh việc tiếp xúc với cấp uỷ , chính quyền địa phương khi đặt vấn đề trên . - Đối với đảng viên , nhiều đồng chí không muốn công khai mình là đảng viên , vì sợ nhà đầu tư biết sẽ phân biệt đối xử (tâm lý sợ mất việc làm ) ; nhiều đảng viên làm những công việc thông thường thì có tư tưởng tự ti , an phận , cho rằng mình là người làm thuê , ăn lương , chưa nhận thức được đầy đủ vai trò, trách nhiệm của người đảng viên . - Đối với người công nhân lao động , tâm lý số đông cho rằng họ

320

là người làm thuê , lo đời sống , thu nhập là chủ yếu , lao động theo ca kíp và mệt mỏi nên không muốn và không có thời gian tham gia vào hoạt động của đoàn thể . 3. Để có thể xây dựng được tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , vấn đề rất quan trọng mà Đảng bộ tỉnh Đồng Nai đã nhận thức được , đó là trước hết phải tạo sự thống nhất cao về nhận thức trong các cấp uỷ , cán bộ , đảng viên , các tổ chức đoàn thể , đồng thời tập trung nỗ lực của toàn Đảng bộ , kiên trì , sáng tạo , áp dụng nhiều biện pháp cả về tư tưởng và tổ chức , phù hợp với tình hình đặc điểm của từng doanh nghiệp , cụ thể là :

·

Trước hết , phải quán triệt sâu và thường xuyên cho các cấp

uỷ , tổ chức đảng , đoàn thể và cho đến từng đảng viên hiện đang làm việc trong các doanh nghiệp về những nội dung cơ bản của Chỉ thị số 07/ CT - TW của Bộ Chính trị về mục đích thành lập tổ chức đảng , đoàn thể trong doanh nghiệp ; thành lập các ban chỉ đạo của cấp uỷ các cấp , đặc biệt là ở những huyện , thị xã , thành phố có khu công nghiệp tập trung để chỉ đạo và tổ chức thực hiện ; phân công cán bộ chuyên trách , xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm về phát triển các tổ chức đảng , đoàn thể và tiến hành sơ kết định kỳ để rút kinh nghiệm chỉ đạo . - Khi các doanh nghiệp quyết định đầu tư vào địa bàn tỉnh , cấp uỷ và chính quyền địa phương phải quan tâm tích cực cùng giải quyết , tháo gỡ những khó khăn , vướng mắc của các doanh nghiệp ; tổ chức gặp mặt các nhà đầu tư , lắng nghe ý kiến của họ và bàn biện pháp giúp doanh nghiệp phát triển , thể hiện sự "đồng hành " của Đảng bộ , chính quyền đối với doanh nghiệp . Đây là một vấn đề rất quan trọng nhằm đem lại niềm tin cho doanh nghiệp đối với Đảng và chính quyền ở địa phương và có giá trị thuyết phục cao để các chủ doanh nghiệp hiểu biết thêm về Đảng , đồng tình với việc xây dựng tổ chức đảng , đoàn thể trong doanh nghiệp của mình .

321

· Có biện pháp thuyết phục cho chủ doanh nghiệp thấy được mục đích , ý nghĩa việc xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể là nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp . Muốn làm được điều đó , lãnh đạo các cấp uỷ , trực tiếp là đồng chí Bí thư, Phó Bí thư cấp uỷ , nhất là vai trò quan trọng của Bí thư, Phó Bí thư Tỉnh uỷ phải nắm và hiểu rõ từng loại doanh nghiệp , thậm chí từng cá nhân chủ doanh nghiệp và chủ động tổ chức gặp gỡ chủ doanh nghiệp để trao đổi , thuyết phục . - Đối với đảng viên trong doanh nghiệp , các cấp uỷ phải tổ chức gặp

gỡ từng nhóm ,

thậm chí từng đồng chí để tuyên

truyền , vận động đảng viên nhận thức đầy đủ chủ trương của Đảng , về trách nhiệm của đảng viên trong việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng , đoàn thể trong doanh nghiệp mình làm việc , dù đảng viên đó ở bất cứ cương vị nào ( người quản lý , nhân viên kỹ thuật , công nhân lao động ... ) . Từ đó , hướng dẫn cụ thể cho đảng viên có biện pháp tác động nhà đầu tư đồng tình , ủng hộ việc thành lập tổ chức đảng , đoàn thể trong doanh nghiệp . Việc tuyên truyền này phải có nội dung phù hợp . Tỉnh uỷ Đồng Nai đã căn cứ vào Quyết định số 15 , 16/QĐ - TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 26-11-1996 quy định về chức năng , nhiệm vụ của đảng bộ , chi bộ trong doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để các tổ chức đảng thực hiện và tuyên truyền với nhà đầu tư . Do đó đã giải quyết được những vấn đề vướng mắc của tổ chức đảng và tư tưởng của chủ doanh nghiệp trong nhận thức về xây dựng và hoạt động của tổ chức đảng và các đoàn thể trong doanh nghiệp . 4. Khi xúc tiến xây dựng các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp , cần phải có cách thức và bước đi thích hợp , phải tiến hành làm điểm trước , xây dựng ở các doanh nghiệp tư nhân có đảng viên là giám đốc , ở các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu

322

tư nước ngoài trước , ở các doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp đã thống nhất , đồng tình trước để rút kinh nghiệm , từ đó xây dựng tổ chức ở doanh nghiệp tiếp theo . - Đối với những doanh nghiệp có từ 3 đảng viên chính thức trở lên đang làm việc tại doanh nghiệp nhưng còn sinh hoạt Đảng ở nơi khác , cấp uỷ cấp trên trực tiếp cần chỉ đạo việc chuyển sinh hoạt Đảng của số đảng viên này về doanh nghiệp để thành lập tổ chức đảng. - Đối với những doanh nghiệp có đảng viên nhưng chưa đủ số lượng để thành lập tổ chức đảng , thì chuyển số đảng viên này về sinh hoạt ghép với chi bộ công đoàn cấp huyện và tương đương nơi doanh nghiệp đứng chân , để chi bộ phân công số đảng viên này theo dõi tình hình hoạt động của doanh nghiệp , theo dõi việc tạo nguồn , giới thiệu quần chúng tốt từ các tổ chức công đoàn , Đoàn thanh niên trong doanh nghiệp cho chi bộ xem xét kết nạp vào Đảng . - Đối với những doanh nghiệp chưa có đảng viên , cấp uỷ cấp trên trực tiếp cần bố trí cán bộ có kinh nghiệm theo dõi , tiến hành làm công tác giáo dục quần chúng , lựa chọn số đối tượng xuất sắc trong các tổ chức đoàn thể ở doanh nghiệp để phát triển đảng viên và từng bước xây dựng các điều kiện thành lập tổ chức đảng . 5. Khi đã xây dựng được tổ chức đảng , đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , một vấn đề lớn đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng , đoàn thể , nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, nâng cao nhận thức của đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp . Để làm được điều đó , phải có nhiều biện pháp thật cụ thể , phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp , làm cho vai trò của tổ chức đảng, đoàn thể thể hiện được là hạt nhân lãnh đạo , tuyên

323

truyền , vận động, thuyết phục công nhân và giới chủ thực hiện đạt được yêu cầu , mục đích đề ra .

· Các tổ chức đảng và ban chấp hành các đoàn thể phải xây dựng được quy chế hoạt động, có nội dung, phương pháp hoạt động phù hợp với đặc điểm , tình hình của doanh nghiệp . Đảng viên phải thể hiện tính tiền phong gương mẫu trong công việc . Công đoàn , Đoàn thanh niên phải có hình thức tuyên truyền vận động phù hợp với điều kiện làm việc theo ca kíp của từng doanh nghiệp và điều kiện sống phân tán của công nhân , từ đó tập hợp họ vào đoàn thể ; đồng thời động viên người lao động thực hiện tốt hợp đồng thoả ước lao động đã ký kết , nội quy , quy ước và các phong trào thi đua trong sản xuất , làm cho chủ doanh nghiệp thấy rõ lợi ích phát triển doanh nghiệp khi có tổ chức đảng , đoàn thể trong doanh nghiệp mình .

·- Thực tế ở Đồng Nai , qua tổ chức cách làm trên , hầu hết tổ chức đảng , đoàn thể đã được thành lập đều thể hiện được vai trò hạt nhân chính trị lãnh đạo , tuyên truyền , vận động cán bộ , đảng viên , đoàn viên , hội viên và người lao động thực hiện đường lối , chủ trương của Đảng, chính sách , pháp luật của Nhà nước ; chăm lo tốt đời sống vật chất , tinh thần cho người lao động; làm tốt công tác tạo nguồn phát triển đảng viên , đoàn viên , hội viên mới . Một số tổ chức đảng khi mới thành lập chỉ có chi bộ với vài đảng viên , đến nay

đã

phát

triển

thành

đảng

bộ

như :

Đảng

bộ

Công

ty

AJINOMOTO , Đảng bộ Công ty VEDAN VN ... (các đảng bộ này đều ở doanh nghiệp 100 % vốn đầu tư nước ngoài) ; đảng viên mới kết nạp phải là những đồng chí tiên tiến , gương mẫu trong hoạt động đoàn thể , có kiến thức , uy tín , một số người có vị trí quan trọng trong doanh nghiệp ; các cấp uỷ , ban chấp hành các đoàn thể đều có xây dựng quy chế, quy ước hoạt động. Một số cấp uỷ , ban chấp hành đoàn thể khi xây dựng quy chế , quy ước hoạt động đã

324

chủ động tham khảo ý kiến của nhà đầu tư để tạo sự thông hiểu và đồng thuận , ủng hộ . Trong những năm qua , mặc dù tình hình đình công và tranh chấp lao động có xảy ra ở nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Đồng Nai , nhưng những doanh nghiệp có tổ chức đảng đều không xảy ra việc đình công, lãn công. Hầu hết các tổ chức đảng , đoàn thể trước đây hoạt động chủ yếu ngoài giờ sản xuất , đảng viên đi học tập nghị quyết , đi họp không được hưởng lương và còn bị trừ vào ngày phép , còn ngày nay , các cuộc họp hàng tháng hoặc đại hội của chi bộ , ban chấp hành công đoàn đã được nhà đầu tư chấp thuận tiến hành trong giờ sản xuất của doanh nghiệp , đảng viên đi họp , học tập không trừ phép , trừ lương . Một số tổ chức đảng, công đoàn còn được nhà đầu tư hỗ trợ kinh phí , bố trí phòng họp trang trọng để tổ chức sinh hoạt thuận lợi . 6. Tuy nhiên , qua kết quả xây dựng và hoạt động của tổ chức đảng , đoàn thể trong các doanh nghiệp trên ở Đồng Nai , chúng tôi nhận thấy vẫn còn rất nhiều hạn chế , nhiều vấn đề cần phải tiếp tục được giải quyết , đó là :

Mặc dù kết quả đã đạt được như trên , nhưng so với yêu cầu vẫn còn thấp , cụ thể là đến nay còn 82,8 % doanh nghiệp chưa có tổ chức đảng , 87,1 % doanh nghiệp chưa có tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và 96,9 % doanh nghiệp chưa có Chi hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam . Tổ chức công đoàn có khá hơn , nhưng vẫn còn có 27,7 % doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn . Chất lượng hoạt động của một số tổ chức đảng , đoàn thể còn hạn chế , xây dựng quy chế hoạt động chưa sát , đảng viên , công đoàn viên sinh hoạt chưa đều , tổ chức đảng chưa thật sự thể hiện là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối với đội ngũ công nhân ở doanh nghiệp ; tổ chức công đoàn , Đoàn thanh niên chưa thực hiện tốt công tác tuyên truyền , vận động , giáo dục người lao động trong doanh nghiệp .

325

Để tiếp tục tăng cường công tác xây dựng đảng , xây dựng các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài , xin kiến nghị Trung ương Đảng tiếp tục chỉ đạo một số vấn đề sau : - Đến nay , việc thành lập các tổ chức đảng, Đoàn thanh niên , Hội Liên hiệp Thanh niên trong doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa trên cơ sở thuyết phục , động viên chủ doanh nghiệp cho nên gặp không ít những khó khăn , vướng mắc vì những lý do đã nêu trên . Do đó đề nghị Trung ương sớm chỉ đạo luật hoá việc thành lập và hoạt động các tổ chức đảng , Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh , Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam trong các doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài . Cần sớm chỉ đạo tổ chức tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 07/ CT - TW của Bộ Chính trị về công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp đầu tư nước ngoài để rút kinh nghiệm tiếp tục chỉ đạo tiếp . Trong đó , cần đặc biệt chú trọng đến hướng dẫn nội dung xây dựng quy chế và phương thức hoạt động cụ thể cho các tổ chức đảng và đoàn thể trong doanh nghiệp trên . Đồng thời có những chủ trương, chính sách hỗ trợ đối với cấp uỷ đảng, đảng viên , cán bộ chủ chốt của các đoàn thể ; các điều kiện hỗ trợ người lao động ở doanh nghiệp (như nhà ở , đi lại , vui chơi giải trí , nâng cao kiến thức , tay nghề ) để tạo thuận lợi cho việc tập hợp , tuyên truyền , giáo dục rèn luyện đội ngũ giai cấp công nhân .

- Hiện nay , Đảng ta đang lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vì vậy càng phải chăm lo , giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng , chăm lo xây dựng, rèn luyện bản lĩnh , bản chất cho giai cấp công nhân , đây là cơ sở xã hội - chính

326

trị quan trọng của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này thì dễ mơ hồ , dẫn đến phai nhạt lý tưởng, biến chất Đảng . Do đó kiến nghị Ban Chấp hành Trung ương sớm xây dựng và ban hành Nghị quyết chuyên đề của Trung ương về xây dựng giai cấp công nhân và xây dựng tổ chức Công đoàn trong tình hình mới .

327

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐỒNG BỘ , CÓ CƠ CẤU HỢP LÝ , CÓ CHẤT LƯỢNG TỐT ĐỂ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI ( Tham luận của đồng chí Phùng Hữu Phú , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Phó Bí thư Thường trực Thành uỷ Hà Nội , đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội )

Thực tiễn cách mạng Việt Nam suốt 76 năm qua đã chứng minh một cách sinh động vai trò quyết định thắng lợi của đội ngũ cán bộ do Đảng ta đào tạo và rèn luyện . " Cán bộ nào phong trào ấy" ; nơi nào , lúc nào đội ngũ cán bộ tốt , giỏi thì nơi đó , lúc đó cách mạng phát triển mạnh , thuận lợi , gặt hái nhiều kết quả ; ngược lại , nơi nào , lúc nào đội ngũ cán bộ yếu kém thì nơi ấy , lúc ấy cách mạng gặp khó khăn , tổn thất. Ở thời điểm hiện tại và trong chặng đường sắp tới , trước yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu của Đảng , đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước ; yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trước sự tiến công điên cuồng và thâm độc của các thế lực thù địch ; yêu cầu củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ... , công tác cán bộ càng trở nên vô cùng quan trọng . Có thể nói , công tác cán bộ đang và sẽ thật sự là công việc mấu chốt trong nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, có ý nghĩa sâu sắc về chính trị , kinh tế , văn hoá , xã hội , đối ngoại , an ninh , quốc

328

phòng, liên quan trực tiếp đến thành bại của cách mạng và sự an nguy của Đảng, của chế độ ta . Trong Dự thảo Báo cáo chính trị và Dự thảo Báo cáo công tác xây dựng Đảng , công tác cán bộ đã được trình bày khá sâu sắc và toàn diện . Tuy nhiên, vì tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề, tôi rất mong Đại hội lần này sẽ dành nhiều thời gian thảo luận để làm rõ hơn , đầy đủ hơn . Tôi xin phép được đóng góp một số ý kiến về vấn đề này : Trước hết , cần nhận thức sâu hơn , chuẩn xác hơn tính đồng bộ , tính hợp lý và yêu cầu bảo đảm chất lượng trong xây dựng đội ngũ cán bộ hiện nay . Sự nghiệp đổi mới càng mở rộng, càng đi vào chiều sâu thì càng đòi hỏi chúng ta phải thiết kế và triển khai một chiến lược tổng thể về công tác cán bộ , bảo đảm tính đồng bộ và tính hợp lý nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả đội ngũ . Tính đồng bộ phải được thể hiện rõ nét trong thế bố trí chiến lược thống nhất đội ngũ cán bộ trong toàn bộ hệ thống chính trị , trong từng thành tố của hệ thống chính trị , phù hợp với yêu cầu , chức năng , nhiệm vụ ; sự thống nhất và đồng bộ của đội ngũ cán bộ từ trên xuống dưới , từ Trung ương tới cơ sở ; sự thống nhất và đồng bộ giữa các loại hình cán bộ : lãnh đạo , quản lý , chỉ huy , tham mưu , tác nghiệp . Tính đồng bộ của đội ngũ cán bộ đòi hỏi chúng ta phải tính toán và bố trí khoa học số lượng cán bộ theo một tỷ lệ tương thích , bảo đảm mối quan hệ thông suốt , thống nhất , gắn bó hữu cơ như các bộ phận hợp thành một cơ thể sống . Tính hợp lý phải được thể hiện cụ thể trong việc tính toán , bố trí cơ cấu cán bộ , bảo đảm sự hài hoà giữa ngành và lãnh thổ, CƠ cấu nội ngành và cơ cấu của từng địa phương; hài hoà giữa các lĩnh vực , các địa bàn , vừa lo cho trước mắt vừa chuẩn bị cho lâu dài . Trên cơ sở hợp lý hoá các cơ cấu lớn cần thiết kế phù hợp cơ cấu về độ tuổi , về giới tính , về thành phần dân tộc .

329

Nhấn mạnh tính đồng bộ , tính hợp lý trong xây dựng đội ngũ cán bộ không đồng nhất với sự phân bổ bình quân , cào bằng mà phải giải quyết tốt yêu cầu phủ kín cán bộ ở các ngành , các cấp với ưu tiên đầu tư cán bộ cho các ngành quan trọng, các địa bàn trọng điểm , các lĩnh vực then chốt ; vừa ưu tiên xây dựng đội ngũ cán bộ tầm chiến lược , như Dự thảo Báo cáo công tác xây dựng Đảng nhấn mạnh , đồng thời phải quan tâm nhiều hơn đến xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở - đội ngũ tiếp xúc trực tiếp với dân hàng ngày hàng giờ , đội ngũ trực tiếp triển khai mọi công việc , mọi chủ trương , đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước . Nói tính đồng bộ , tính hợp lý là nói đến hai vấn đề có ý nghĩa định hướng suy nghĩ và thiết kế , song vấn đề hệ trọng số một trong xây dựng đội ngũ cán bộ là vấn đề bảo đảm chất lượng cán bộ . Trong Dự thảo Báo cáo công tác xây dựng Đảng , ở phần đúc kết các bài học kinh nghiệm và xác định mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ trong thời gian tới đều nhấn mạnh các tiêu chuẩn về

bản

lĩnh chính trị ; phẩm chất , đạo đức ; năng lực trí tuệ và hoạt động thực tiễn , xem đó là những nhân tố cốt tử bảo đảm chất lượng của đội ngũ cán bộ . Những tiêu chí xác định chất lượng cán bộ như vậy là đúng đắn . Thực hiện cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt hiện nay đòi hỏi đội ngũ cán bộ , hơn bao giờ hết , sự vững vàng, nhạy bén , sắc sảo về chính trị , không hoang mang , dao động và đủ sức hướng dẫn , bồi đắp niềm tin của nhân dân vào mục tiêu , lý tưởng , vào đường lối , chính sách của Đảng ; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu , thủ đoạn chống phá Đảng , chống phá chế độ của các thế lực thù địch . Những yếu kém trong công tác cán bộ ; sự suy thoái nghiêm trọng của một bộ phận cán bộ , điển hình là những vụ việc tham nhũng, tiêu cực được phát hiện đang làm chấn động, gây bất bình sâu rộng trong dư luận xã hội đang đòi hỏi một cách gay gắt yêu cầu xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sáng về động cơ , trong sạch về đời sống , lành mạnh trong hoạt động , thực sự gắn bó

330

và là tấm gương được nhân dân tin phục . Trên con đường xây dựng một xã hội mới mẻ chưa có tiền lệ , chúng ta phải vừa làm , vừa học , vừa rút kinh nghiệm , đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải có trí tuệ , tri thức , nhạy cảm nắm bắt cái mới, bảo vệ cái mới và biết tổ chức chỉ đạo thực tiễn , miệng nói tay làm , tâm huyết với công việc chung , quyết đưa cái mới , cái đúng trở thành hiện thực trong cuộc sống . Sự thật , vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng là vấn đề sống còn đối với chúng ta . Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, hợp lý , có chất lượng tốt , xét về mặt nhận thức và lý thuyết, tuy không đơn giản nhưng không phải là khó nhất. Điều khó nhất là làm thế nào để xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Ở đây đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ , tích cực và hiệu quả . Dự thảo Báo cáo công tác xây dựng Đảng , trong phần phương hướng , mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn đã nhấn mạnh : "Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ cả về nội dung và phương pháp , tạo sự chuyển biến cơ bản , vững chắc trong công tác cán bộ " ; "Tiếp tục đổi mới , triển khai đồng bộ , có hệ thống các khâu : đánh giá , quy hoạch , đào tạo , bồi dưỡng , luân chuyển , bố trí , sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ " . Dự thảo còn tập trung làm rõ một số khâu quan trọng trong quy trình công tác cán bộ như : đánh giá cán bộ ; xây dựng và thực hiện chế độ bỏ phiếu tín nhiệm , từ chức , thôi chức , miễn chức , cách chức đội ngũ cán bộ phạm khuyết điểm hoặc không hoàn thành nhiệm vụ ; thực hiện cơ chế đảng viên và nhân dân tham gia giám sát cán bộ và công tác cán bộ . Đó là những bước tiến thể hiện tinh thần đổi mới , nâng cao chất lượng công tác cán bộ của chúng ta . Tôi xin được nhấn mạnh thêm một số vấn đề: Thứ nhất , khâu quan trọng hàng đầu trong quy trình công tác cán bộ là phải đánh giá đúng cán bộ - khâu phức tạp , nhạy cảm và quan trọng nhất , đặc biệt trong bối cảnh sự tác động nhiều chiều ,

331

dữ dội của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập và sự phá hoại của các thế lực thù địch cùng những phần tử cơ hội, bất mãn . Làm sao để không lẫn lộn vàng thau , không để lọt những phần tử thoái hoá , biến chất vào hàng ngũ cán bộ , nhất là cán bộ chủ chốt các cấp , các ngành , đồng thời phải làm sao để không bỏ sót và bảo vệ được những cán bộ có đức, có tài , tránh sự lãng phí cán bộ và sự oan khiên của cán bộ . Điều này đòi hỏi công tác đánh giá cán bộ phải thực sự dân chủ , công khai , minh bạch , đồng thời đòi hỏi lãnh đạo cấp trên và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức phải tiếp cận và xử lý đúng đắn các kênh thông tin chuẩn xác ; phải sâu sát cán bộ trong mối quan hệ đồng chí trong sáng. Lý tưởng nhất và cũng thật sự cần thiết là phải thiết lập và vận hành thường xuyên , thông suốt kênh giao tiếp trực tuyến giữa cấp có thẩm quyền đánh giá cán bộ với cán bộ thuộc diện được đánh giá , tránh cảm tính hoặc nhận xét sai lệch bởi các thông tin nhiễu . Thứ hai, cần quan tâm nhiều hơn đến cơ chế phát hiện cán bộ có đức , có tài để quy hoạch , đào tạo , bố trí một cách chính xác , hiệu quả . Đất nước chúng ta không thiếu người tốt , người tài . Nếu có cơ chế tiến cử , có cơ chế thi tuyển thật sự công khai , dân chủ , minh bạch , chúng ta sẽ mở rộng nguồn cán bộ, khắc phục được tình trạng khi cần phải " đốt đuốc " đi tìm cán bộ . Thứ ba , để bảo đảm sự trong sạch và sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ , rất cần thiết phải bổ sung vào quy trình công tác cán bộ hai khâu quan trọng : quản lý - giám sát và sàng lọc cán bộ . Đồng thời với việc bổ nhiệm , giao quyền , tạo điều kiện để cán bộ phát huy tốt nhất năng lực của mình , cần có cơ chế quản lý , giám sát chặt chẽ ngay từ chi bộ, tổ dân phố , để phòng ngừa cán bộ mắc sai lầm , phát hiện sớm nguy cơ cán bộ có khuyết điểm và khi cán bộ mắc sai phạm phải có cơ chế đơn giản , thuận lợi , kịp thời để thay thế với các hình thức phù hợp : từ chức , thôi chức , miễn chức , cách chức , xem đó là việc làm thường xuyên , bình thường trong đời sống

332

chính trị - xã hội . Quản lý chặt chẽ , giám sát thường xuyên , sàng lọc kiên quyết với các cơ chế , chế tài cụ thể , khả thi sẽ góp phần tích cực phòng chống , loại trừ các tật bệnh , nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng sự đòi hỏi nghiêm ngặt đang trở thành nỗi bức xúc của nhân dân . Đảng bộ Hà Nội , sau Đại hội XIV , đang khẩn trương xây dựng 9 chương trình công tác lớn để triển khai các chủ trương , đường lối của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố , trong đó chương trình số một là "Tạo chuyển biến mạnh trong công tác xây dựng Đảng " do đồng chí Bí thư Thành uỷ trực tiếp làm Chủ nhiệm . Nhận thức sâu sắc tầm

quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ đối

với đất nước nói chung, đối với Thủ đô Hà Nội nói riêng ; phát huy những kết quả đã đạt được và nghiêm khắc rút kinh nghiệm về sự yếu kém , bất cập trong xây dựng đội ngũ cán bộ của thành phố , Thành uỷ đặt vấn đề đổi mới , nâng cao chất lượng công tác cán bộ , xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch , vững mạnh đáp ứng yêu cầu phát triển Thủ đô toàn diện , bền vững thành một trong ba nhiệm vụ trọng tâm của chương trình . Một số ý kiến trình bày trong bản tham luận này được chắt lọc từ những nội dung cơ bản của chương trình xây dựng Đảng của Thành uỷ Hà Nội với mong muốn đóng góp vào công việc chung của Đại hội .

333

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ ĐẠO ĐỨC , LỐI SỐNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY ( Tham luận của đồng chí Vũ Quốc Hùng, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Trưởng bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (lần 2 ), đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ )

Tôi nhất trí với đánh giá về đạo đức , lối sống của cán bộ , đảng viên được đề cao trong Báo cáo chính trị : "Đa số cán bộ , đảng viên phát huy vai trò tiên phong , năng động , sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức" . Đó chính là mặt mạnh cơ bản của cán bộ , đảng viên hiện nay và nhờ " đa số " cán bộ , đảng viên "phát huy vai trò tiên phong , năng động , sáng tạo, giữ gìn phẩm chất đạo đức " nên đã động viên , khích lệ nhân dân vượt qua bao khó khăn , thách thức , đưa công cuộc đổi mới ở nước ta đạt được "những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử " như Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương trình Đại hội đã khẳng định . Tuy nhiên , chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận rằng : hiện nay , điều mà Bác Hồ cảnh báo : "Một dân tộc, một đảng và mỗi con người , ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn , không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa , nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân ", đã và đang diễn ra , sự suy thoái về đạo đức , lối sống dẫn đến tệ quan liêu , tham nhũng , lãng phí, nhũng nhiễu dân của một bộ phận không

334

nhỏ cán bộ , đảng viên vẫn diễn ra rất nghiêm trọng . Thể hiện : Thứ nhất , suy thoái về đạo đức , lối sống trong cán bộ , đảng viên có xu hướng tăng cả về số lượng và phạm vi . Khi bước vào thời kỳ đổi mới , một lời cảnh báo tại Đại hội VI " Trong xã hội ta đang diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai lối sống : lối sống có lý tưởng , lành mạnh, trung thực , sống bằng lao động của mình, có ý thức tôn trọng và bảo vệ của công , chăm lo lợi ích của tập thể , của Nhà nước , với lối sống thực dụng , dối trá , ích kỷ , ăn bám, chạy theo đồng tiền" , đến nay tình trạng đó đã , đang diễn ra ngay trong Đảng . Từ chỗ chỉ có ở "một bộ phận " thì nay đã diễn ra ở "một bộ phận không nhỏ" , trong đó có cả cán bộ , đảng viên có chức , có quyền . Sự suy thoái về đạo đức , lối sống làm nảy sinh lãng phí, tham nhũng , nhũng nhiễu dân , trước kia diễn ra chủ yếu ở cán bộ , đảng viên hoạt động trong lĩnh vực kinh tế , thì nay xảy ra ở trong tất cả các ngành , các lĩnh vực : y tế , giáo dục , văn hoá , thực hiện chính sách xã hội , tổ chức cán bộ , công tác tham mưu , hoạch định chính sách cu thể ... ; mức độ ngày càng tăng nếu trước kia chủ yếu là " ăn cắp vặt" , "bớt xén " mang tính chất cá nhân , đơn lẻ , thì nay diễn ra với nhiều thủ đoạn , có tính " tổ chức " chặt chẽ , " móc nối" chằng chịt trên dưới , trong ngoài để trục lợi như: thông đồng , chia chác giữa các bên trong đầu tư xây dựng cơ bản , giải phóng mặt bằng , mua sắm vật tư, thiết bị , hàng hoá , đấu thầu và chỉ định thầu , phân phối dự án , hoàn thuế giá trị gia tăng, trong cấp phát vốn , nhận hối lộ trong điều tra , truy tố , xét xử ; " ra giá " trong việc cung cấp thông tin bí mật và trong bổ nhiệm , đề bạt cán bộ ... Thứ hai, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân có chiều hướng gia tăng và không chỉ có ở đảng viên trẻ , mà còn biểu hiện ở cả trong một bộ phận cán bộ , đảng viên nói chung , nhất là những cán bộ nắm quyền , nắm tiền và tài sản công , nắm cán bộ , nắm thông tin .

335

Lối sống này , trái với những chuẩn mực đạo đức của người cộng sản " cần , kiệm , liêm , chính , chí công vô tư " như sinh thời Bác Hồ đã dạy .

Báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị Trung ương 6 ( lần 2 ) khoá VIII đã đề cập đến 5 kiểu " chạy" . Đó là : " chạy chức" trước khi bầu cử ; "chạy quyền " trước khi bổ nhiệm , thuyên chuyển cán bộ ; " chạy chỗ" , tìm " chỗ thơm ", " chỗ ngon , chỗ kiếm được nhiều lợi" (chẳng những chạy cho bản thân mà còn cho cả người thân , người nhà) ; "chạy lợi " khi phân chia ngân sách , xét duyệt dự án đầu tư, giao thầu , tính thuế, xét duyệt đề tài nghiên cứu ... ; " chạy tội" cho bản thân , cho "người thân " , có trường hợp cho cả những tên tội phạm . Trong Báo cáo Công tác xây dựng Đảng tại Đại hội lần này , Trung ương cũng nhận định , nơi này , nơi khác vẫn còn tình trạng " chạy chức" , " chạy quyền " , "chạy tội", "chạy bằng cấp" . Trong xã hội còn có dư luận " chạy tuổi" để được đề bạt, được vào cấp uỷ , kéo dài thời gian công tác để hưởng "bổng lộc " . Thứ ba, nói nhiều, làm ít ; nói nhưng không làm còn xảy ra ở không ít cán bộ , đảng viên , trái với lời dạy của Bác Hồ là "nói phải đi đôi với làm " , "Dù khó khăn đến mấy cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị quyết của Đảng" . Đúng như Báo cáo chính trị trình Đại hội đã nêu : " Tình trạng nói nhiều , làm ít, làm không đến nơi đến chốn hoặc không làm còn diễn ra ở nhiều nơi". Thứ tư , quan liêu, xa dân, thích nghe thành tích , ngại nghe sự thật. Trong Đảng ta hiện nay , không ít cấp uỷ , người lãnh đạo ... còn xa dân , không sát cơ sở , không hiểu thực tiễn , ít lắng nghe ý kiến cấp dưới , không nắm được hoạt động , lối sống của cán bộ dưới quyền , nên có trường hợp đề ra chủ trương, chính sách không phù hợp với thực tế , người dân không đồng tình . Việc nhận xét cán bộ chung chung, thậm

chí sai lệch tới mức " vô trách nhiệm ". Vụ tham

nhũng và tha hoá đạo đức , lối sống của một số cán bộ , đảng viên ở

336

PMU18 nghiêm trọng như vậy mà đồng chí Phó Bí thư Đảng uỷ cơ quan Bộ vẫn khẳng định : " Trước khi bị khởi tố , họ đều là đảng viên tốt " . Khẳng định như vậy " thì thật là quan liêu , vô chính trị , vô trách nhiệm , có thể nói là vô cảm , không thể chấp nhận được " . Thứ năm , tham nhũng , nhũng nhiễu dân , gây hậu quả nặng nề trên nhiều mặt , làm thất thoát tài sản , tiền vốn của Nhà nước , của nhân dân và sự hư hỏng của một bộ phận không nhỏ cán bộ , đảng viên (sự hư hỏng cán bộ đã dẫn đến gần 4 vạn đảng viên bị kỷ luật trong một nhiệm kỳ đại hội ; trong đó , số cán bộ do Ban Chấp hành Trung ương , Bộ Chính trị , Ban Bí thư đã kỷ luật là 114 cán bộ , có 12 Uỷ viên Trung ương Đảng ; chỉ riêng vụ án Trương Văn Cam đã có 17 đảng viên bị phạt tù , trong đó có người đã từng giữ những cương vị quan trọng trong bộ máy công quyền ; vụ xảy ra tại PMU18 đã dẫn đến Bộ trưởng phải từ chức và Thứ trưởng bị khởi tố điều tra ) . Tình trạng "nhũng nhiễu " , " vòi vĩnh " dân ở nhiều cán bộ , đảng viên , công chức khi thực thi công vụ , nhưng chưa tới mức phải truy tố trước pháp luật diễn ra ngày càng nghiêm trọng trong nhiều ngành , nhiều cấp , nhiều lĩnh vực , gây bức xúc trong xã hội , ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư , làm nhiều cán bộ , đảng viên và nhân dân băn khoăn , chưa thật sự tin tưởng đối với cuộc đấu tranh phòng , chống tệ quan liêu , tham nhũng , lãng phí , nhũng nhiễu dân . Tóm lại , có thể nói , tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, về phẩm chất đạo đức , lối sống dẫn đến tệ quan liêu, tham nhũng , lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, đảng viên diễn ra nghiêm trọng làm cho nhân dân bất bình, lo lắng và giảm lòng tin đối với Đảng , Nhà nước , là nhân tố kìm

hãm

bước tiến của công cuộc đổi mới và vẫn là nguy cơ , hiểm họa lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng , của chế độ ta . Về nguyên nhân của những suy thoái nói trên , nhiều nguyên

337

nhân đã được đề cập trong các báo cáo trình Đại hội , tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây : Một là, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập , Đảng, Nhà nước ta chưa lường hết tác động của mặt trái cơ chế thị trường, nên lúng túng trong việc chuẩn bị tư tưởng , khả năng tự đề kháng trong cán bộ , đảng viên và nhân dân . Chưa kịp thời tổng kết thực tiễn , nghiên cứu , nhận dạng những hành vi tiêu cực nảy sinh trong quá trình đổi mới , nên không có những biện pháp ngăn ngừa , khắc phục một cách hiệu quả . Các công cụ mang tính pháp lý để hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường , mở cửa , hội nhập như luật , cơ chế, chính sách , nhất là trong lĩnh vực đất đai , đầu tư xây dựng cơ bản , chi tiêu tài chính công , công tác cán bộ lại còn nhiều sơ hở , dễ bị lợi dụng để trục lợi, nhưng chậm được khắc phục ; cùng với việc chúng ta chưa thực hiện tốt dân chủ , công khai , minh bạch nên đã gây trở ngại đáng kể cho cuộc đấu tranh phòng , chống tệ quan liêu , tham nhũng, lãng phí , ngăn ngừa sự suy thoái đạo đức , lối sống trong Đảng và trong xã hội . Hai là , việc giáo dục đạo đức , lối sống cho cán bộ , đảng viên chưa được tiến hành thường xuyên , không ít nơi bị buông lỏng . Nội dung, phương pháp giáo dục còn đơn điệu , còn thiếu những biện pháp cụ thể gợi mở cho đảng viên tự kiểm điểm , tự rèn luyện , tự tu dưỡng ; hiệu quả giáo dục còn hạn chế, chưa nâng cao được tính chiến đấu , tinh thần thẳng thắn , dũng cảm trong tự phê bình và phê bình của cán bộ , đảng viên đối với những hành vi sai trái, hư hỏng của bản thân , của đơn vị và của xã hội ; không ít cán bộ , đảng viên biết những hành vi xâm hại đến lợi ích của tập thể, của cộng đồng là trái với những chuẩn mực đạo đức , lối sống , nhưng né tránh , không dám thẳng thắn đấu tranh , góp ý , thậm chí còn dung túng cho những hành vi vi phạm đó . Ba là, chưa nhận thức và hành động đúng nhiệm vụ xây dựng

338

Đảng là then chốt , chưa tạo được quyết tâm chính trị cao trong Đảng và xã hội nhằm ngăn ngừa sự suy thoái trong Đảng về tư tưởng chính trị , đạo đức , lối sống ; đẩy lùi tệ quan liêu , tham nhũng, lãng phí , nhũng nhiễu dân . Vai trò nêu gương trong việc đấu tranh phòng, chống quan liêu , tham nhũng , lãng phí ; rèn luyện đạo đức cách mạng, lối sống giản dị , trong sáng, hết lòng vì Đảng, vì dân của cán bộ , đảng viên , nhất là người đứng đầu cấp uỷ , cơ quan , đơn vị từ Trung ương đến địa phương còn mờ nhạt , chưa trở thành tấm gương sáng về đạo đức , lối sống cho mọi người học tập , noi theo . Về giải pháp , trong các báo cáo trình Đại hội đã đề cập khá đầy đủ , tôi chỉ xin nhấn mạnh thêm ba giải pháp sau đây : Một là, về nhận thức , phải làm chuyển biến sâu sắc trong toàn Đảng, trước hết là trong cấp uỷ , lãnh đạo các cấp về tính nghiêm trọng và nguy cơ của tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị , đạo đức , lối sống và tệ quan liêu , tham nhũng , lãng phí đối với sự ổn định , phát triển của đất nước . Trên cơ sở đó , xây dựng quyết tâm chính trị cao từ Ban Chấp hành Trung ương Đảng , Bộ Chính trị , Ban Bí thư , Quốc hội , Chính phủ …

đến toàn Đảng , toàn xã hội

nhằm ngăn chặn , đẩy lùi các tệ nạn này bằng việc bố trí đúng cán bộ , nhất là người đứng đầu , có đức , có tài , có bản lĩnh , tâm huyết và bằng chương trình hành động cụ thể , có trọng tâm , trọng điểm trong từng thời gian , phù hợp với từng ngành , từng địa phương , đơn vị ; nêu cao trách nhiệm của mỗi người , mỗi cơ quan , đơn vị trong tổ chức thực hiện . Hai là, trong giáo dục phải hết sức coi trọng về chất lượng ; thường xuyên giáo dục về tư tưởng chính trị , nhân cách và lối sống cho cán bộ , đảng viên , đặc biệt là giáo dục cán bộ lãnh đạo , quản lý các cấp và cán bộ , đảng viên hoạt động trong lĩnh vực có môi trường dễ làm hư hỏng như các lĩnh vực có liên quan đến tiền , dự án , cấp phép , điều tra , xét xử , công tác cán bộ , tham mưu hoạch

339

định các chủ trương , chính sách cụ thể ... Từng cơ quan , đơn vị xây dựng và thực hiện nghiêm những tiêu chuẩn đạo đức , lối sống cần " xây " và hành vi cần " chống" . Ba là, trong chỉ đạo thực hiện (cả trong xử lý sai phạm ) phải kiên quyết , ráo riết hơn . Phải chỉ đạo đồng bộ cả chống suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức , lối sống; cả phòng , chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác . Trong Báo cáo chính trị , Báo cáo công tác xây dựng Đảng trình Đại hội cũng như trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn , chúng ta chưa coi trọng đúng mức tới công tác phòng, chống quan liêu ; chưa thấm nhuần và thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh : "Bệnh quan liêu là nguồn gốc sinh ra lãng phí, tham ô... Ở đâu có bệnh quan liêu thì ở đó chắc có tham ô, lãng phí ; nơi nào bệnh quan liêu càng nặng thì nơi đó càng nhiều lãng phí, tham ô. Vì vậy , muốn trừ sạch bệnh tham ô , lãng phí thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan liêu " . Phải đề cao tính gương mẫu của cán bộ , đảng viên , trước hết là của người đứng đầu các cấp từ Trung ương đến cơ sở và thực sự dựa vào dân để ngăn ngừa sự suy thoái trong Đảng , đẩy lùi tệ quan liêu , tham nhũng , lãng phí , nhũng nhiễu dân . Các cấp uỷ đảng , người đứng đầu ngành , địa phương, cơ quan , đơn vị cần thấu suốt lời căn dặn của Bác : " Chống tham ô , lãng phí , quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng mới thành công" .

340

TẬP TRUNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THẬT SỰ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH , NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA ĐẢNG

TRONG TÌNH HÌNH MỚI (Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình )

Qua quá trình nghiên cứu , thảo luận các dự thảo văn kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng, cán bộ , đảng viên và nhân dân Ninh Bình bày tỏ sự nhất trí cao đối với các văn kiện . Nội dung các văn kiện không những đã phản ánh đầy đủ trí tuệ và trách nhiệm của toàn Đảng đối với đất nước , dân tộc mà còn chắt lọc trí tuệ và ý nguyện của toàn dân . Thay mặt cho Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình , tôi xin được phân tích làm rõ hơn một số vấn đề và kiến nghị một số chủ trương, giải pháp tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh , nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới .

Chủ đề của Đại hội X nêu lên hàng đầu việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, thể hiện quan điểm nhất quán của Đảng ta trong sự nghiệp đổi mới , gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm , xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt với phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội ; coi việc tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh , nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống , ngang tầm với

341

yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng, là khâu then chốt và là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới , cả trước mắt cũng như về lâu dài . Thực tiễn những năm qua cho thấy , để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phải tập trung xây dựng tổ chức cơ sở đảng thật sự trong sạch , vững mạnh . Bởi vì , tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở . " Đảng mạnh là do các chi bộ mạnh " và " Các chi bộ mạnh tức là Đảng mạnh " . Toàn bộ sức mạnh của Đảng được thể hiện ở sức mạnh của tổ chức cơ sở đảng trong việc biến chủ trương , đường lối của Đảng, chính sách , pháp luật của Nhà nước thành hiện thực thông qua phong trào hành động cách mạng của quần chúng nhân dân . Hiện nay , Đảng bộ tỉnh Ninh Bình có trên 48.000 đảng viên , sinh hoạt tại 644 tổ chức cơ sở đảng . Trong đó , có 145 tổ chức cơ sở đảng xã , phường , thị trấn ; 78 tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước , doanh nghiệp tư nhân , hợp tác xã ; 338 tổ chức cơ sở đảng trong các cơ quan hành chính , sự nghiệp ; 48 tổ chức cơ sở đảng trong lực lượng vũ trang . Trong những năm qua , công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh đã được các cấp uỷ đảng từ tỉnh đến cơ sở quan tâm tập trung chỉ đạo , phương thức hoạt động được đổi mới , chất lượng tổ chức cơ sở đảng , năng lực lãnh đạo của cấp uỷ các cấp từng bước được nâng lên . Việc đánh giá , phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên ngày càng đi vào nền nếp , sát thực hơn . Hằng năm , tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch vững mạnh tăng , tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng yếu kém giảm dần . So với năm 2001 , số tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh năm 2005 tăng 15 % ; số tổ chức cơ sở đảng yếu kém giảm còn 0,15 % . Công tác đảng viên được quan tâm trên cả ba mặt : quản lý , phân công nhiệm vụ , phát triển đảng viên . Thực hiện nghiêm túc Quy định số 76/QĐ - TW về đảng viên đang công tác giữ mối liên hệ với đảng uỷ , chi uỷ nơi cư trú và Quy định số 19/QĐ - TW về những

342

điều đảng viên không được làm , số đảng viên đủ tư cách , hoàn thành tốt nhiệm vụ ngày càng tăng , số đảng viên vi phạm tư cách đảng viên ngày càng giảm . Năm 2001 , số đảng viên đủ tư cách , hoàn thành tốt nhiệm vụ là 42,9 % , năm 2005 là 72 % (có 13,59 % hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ) ; số đảng viên vi phạm tư cách năm 2001 là 1,23 % , năm 2005 giảm còn 0,58 % . Công tác phát triển đảng viên mới luôn luôn được coi trọng, trong 5 năm (2001 - 2005) , toàn Đảng bộ đã kết nạp được trên 7.800 đảng viên . Trong đó , đoàn viên chiếm tỷ lệ 63 % . Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh đã góp phần quan trọng nâng cao một bước năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ , là nền tảng vững chắc để Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương. Trong đó , nổi bật là các chỉ tiêu về kinh tế : tốc độ tăng trưởng GDP ( 2001 - 2005) đạt bình quân 12 %/năm (riêng năm 2005 , tốc độ tăng trưởng đạt 20,5 % ) ; giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 26,8 %/ năm ; thu ngân sách vượt chỉ tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra ; môi trường đầu tư được cải thiện ; vốn

đầu

tư phát triển



hội

trên

địa bàn tăng bình quân

45,7 %/năm , 20 cụm công nghiệp , 2 khu công nghiệp đã được phê duyệt quy hoạch . Đến nay , tỉnh đã chấp thuận 47 dự án đầu tư với số vốn đăng ký 3.500 tỷ đồng; 4 nhà máy xi măng đang được đầu tư xây dựng với tổng công suất 6 triệu tấn /năm vào năm 2010 . Chính phủ đã phê duyệt đầu tư xây dựng Nhà máy Phân đạm , công suất 56 vạn tấn /năm ; Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình II , công suất 300 MW . Văn hoá - xã hội có tiến bộ , đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện nhiều mặt , công tác xoá đói , giảm nghèo đạt kết quả tốt , không còn hộ đói , hộ nghèo còn 18,02 % ( theo tiêu chí mới) , đã hoàn thành xoá nhà tranh , tre , vách đất ; bộ mặt đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới ; an ninh , chính trị , trật tự an toàn xã hội được giữ vững , quốc phòng được tăng cường ; hệ thống chính trị

343

được củng cố , bảo đảm sự đoàn kết , thống nhất trong Đảng bộ . Bên cạnh những thành tích , kết quả đã đạt được , những năm qua , công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh ở Ninh Bình cũng còn những hạn chế, khuyết điểm . Một số tổ chức cơ sở đảng năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu chưa cao , những tiêu cực xảy ra ở địa phương , đơn vị còn chưa được phát hiện , xử lý kịp thời ; nội dung sinh hoạt chậm đổi mới , chất lượng thấp ; nền nếp sinh hoạt Đảng ở một số cơ quan hành chính sự nghiệp , doanh nghiệp chưa nghiêm . Năng lực của một số cán bộ chủ chốt cơ sở đảng còn bất cập , yếu về kiến thức nghiệp vụ công tác Đảng , kiến thức quản lý nhà nước . Một số cấp uỷ có biểu hiện vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng , không xây dựng quy chế nên hoạt động có biểu hiện tuỳ tiện , còn "lấn sân " hoặc " khoán trắng " cho chính quyền , thiếu thống nhất , mất đoàn kết nội bộ , mất dân chủ trong lãnh đạo . Một bộ phận cán bộ chủ chốt ở cơ sở , bí thư cấp uỷ ở nông thôn tuổi cao , đã trải qua rèn luyện , thử thách trong thực tiễn cách mạng , vững vàng , có kinh nghiệm , có phẩm chất , nhưng về nhận thức , do nhiều nguyên nhân , chưa chuyển kịp với tình hình . Số cán bộ cấp uỷ trẻ tuổi , có trình độ học vấn , có sức khoẻ , nhiệt tình , hăng hái , nhanh nhẹn , nhưng bản lĩnh và kinh nghiệm còn hạn chế ... Bên cạnh đó , một bộ phận cán bộ , đảng viên còn hữu khuynh , né tránh , chưa gương mẫu thực hiện chế độ , chính sách , chưa tích cực đấu tranh chống tham nhũng , lãng phí , chưa gương mẫu trong công tác , trong sinh hoạt ; ý thức trách nhiệm chưa cao , nói không đi đôi với làm , chấp hành kỷ luật lao động chưa nghiêm ; có biểu hiện quan liêu , cửa quyền ... Trong 5 năm ( 2001 - 2005) , số đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật là 875 đồng chí , chủ yếu là do thiếu tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức trách , nhiệm vụ được giao ; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ , mất đoàn kết

344

nội bộ ; cố ý làm trái các quy định của Đảng, Nhà nước ; vi phạm phẩm chất , đạo đức, lối sống ...

Từ thực tiễn chỉ đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh của các cấp uỷ đảng ở Ninh Bình , có thể nêu lên một số kinh nghiệm sau : - Các cấp uỷ đảng phải cụ thể hoá nội dung, tiêu chuẩn tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh . Tăng cường sự lãnh đạo , chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên , trong chỉ đạo , tổ chức thực hiện , phải phân công trách nhiệm rõ ràng , thường xuyên kiểm tra , rút kinh nghiệm . - Nâng cao trách nhiệm , chất lượng của đội ngũ cấp uỷ viên , bí thư cấp uỷ và người đứng đầu ở mỗi cơ quan , đơn vị . Thực tiễn cho thấy , ở nơi nào có đội ngũ cấp uỷ mạnh , bí thư cấp uỷ , người đứng đầu có phẩm chất , năng lực, trách nhiệm thì nơi đó có phong trào và hoạt động có kết quả , được quần chúng nhân dân tin cậy . Ngược lại , ở đâu đội ngũ cấp uỷ , bí thư cấp uỷ , người đứng đầu hoạt động yếu , kém tác dụng thì vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng bị giảm

sút. - Mở rộng và phát huy dân chủ trong Đảng , đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật , tổ chức tốt việc phê bình và tự phê bình , thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ và phát huy sức mạnh tập thể trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị. - Tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm , dù người vi phạm ở bất kỳ cương vị nào để răn đe , ngăn chặn và phòng ngừa , giáo dục chung . - Coi trọng xây dựng chuẩn mực về đạo đức, lối sống của cán bộ , đảng viên , công chức ở mỗi ngành để thường xuyên đối chiếu , kiểm điểm , tự phê bình , tự tu dưỡng và để nhân dân thường xuyên giám sát , phê bình , tham gia vào việc đánh giá cán bộ, đảng viên . Để tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và

345

nhiệm vụ của thời kỳ mới, một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà Dự thảo Báo cáo chính trị đã nêu : " Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ , đảng viên " . Muốn xây dựng tổ chức cơ sở đảng thật sự trong sạch , vững mạnh , phải tiến hành đồng bộ , toàn diện các giải pháp về công tác chính trị , tư tưởng, công tác tổ chức , công tác kiểm tra , nhưng cần tập trung chú trọng một số giải pháp sau : 1. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đồng thời quán triệt phương châm toàn Đảng làm công tác tư tưởng . Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng ở cơ sở , tăng cường giáo dục lý luận chính trị để nâng cao nhận thức cho cán bộ , đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , thông suốt các chủ trương , đường lối của Đảng, chính sách , pháp luật của Nhà nước . Đổi mới nội dung, đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền để quán triệt đường lối , chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước , giáo dục chính trị , tư tưởng cho cán bộ , đảng viên và nhân dân. Công tác tư tưởng phải tiến hành một cách thường xuyên và liên tục , bám sát thực tiễn . Cấp uỷ chủ động chỉ đạo phối hợp các lực lượng , các phương tiện làm công tác tư tưởng . Đổi mới phương thức làm công tác tư tưởng với phương châm : " hướng về cơ sở " , "nghe dân nói , nói cho dân hiểu , làm cho dân tin " . Có chế độ , chính sách thu hút những người có năng lực , kinh nghiệm , uy tín làm công tác tư tưởng ở cơ sở .

2. Coi trọng xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên, nhất là bí thư cấp uỷ có phẩm chất , năng lực . " Cán bộ là " cái gốc " của mọi công việc" , " Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém " . Vì vậy , cần chú trọng

346

kiện toàn và nâng cao chất lượng đội ngũ cấp uỷ viên cơ sở , nhất là cán bộ chủ chốt , bí thư cấp uỷ , thủ trưởng cơ quan , đơn vị . Xây dựng đội ngũ cán bộ đảng, chính quyền , đoàn thể ở cơ sở có phẩm chất , bản lĩnh chính trị , đủ năng lực cụ thể hoá đường lối , chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào thực tiễn ; đủ năng lực giải quyết những vướng mắc hàng ngày của nhân dân . Từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ cơ sở .

Cần bố trí bí thư cấp uỷ , người đứng đầu cơ quan , đơn vị thật sự tiêu biểu , có khả năng tập hợp và là trung tâm đoàn kết nội bộ Đảng và giữa Đảng với nhân dân . Phải làm tốt công tác nhận xét, đánh giá cán bộ hàng năm . Quan tâm đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị , kiến thức quản lý nhà nước , nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ cơ sở , kiến thức nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp uỷ , nhất là bí thư chi bộ để có đủ bản lĩnh chính trị, đủ dũng khí và năng lực xử lý các tình huống phức tạp diễn ra hàng ngày ở cơ sở . Phải quan tâm đến chế độ , chính sách , đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác đảng , đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở nhằm động viên , khuyến khích họ tâm huyết , gắn bó với công việc . Trong việc lựa chọn nhân sự cấp uỷ ở cơ sở cần phát huy hơn nữa dân chủ trong nội bộ Đảng, trên cơ sở tiêu chuẩn là chính , kiên quyết khắc phục tư tưởng "dòng họ" , cục bộ địa phương, bè phái ... Hiện nay , nhiệm kỳ của cấp uỷ trực thuộc đảng bộ cơ sở 1 năm là không phù hợp . Đề nghị Đại hội nghiên cứu , sửa đổi thời gian nhiệm kỳ là 5 năm 2 lần , có như vậy mới tạo điều kiện ổn định về tổ chức và xây dựng đội ngũ cấp uỷ có chất lượng , hiệu quả hơn . Cần có cơ chế , chính sách đãi ngộ thoả đáng để thu hút những sinh viên tốt nghiệp đại học , cao đẳng tự nguyện về nông thôn , cơ sở công tác lâu dài . Từ đó lựa chọn , tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ CƠ SỞ.

347

3. Nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ , sinh hoạt chi bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc , bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động . Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc ; đấu tranh phê bình và tự phê bình , tăng cường đoàn kết thống nhất trong cấp uỷ , cán bộ , đảng viên . Giữ vững nền nếp sinh hoạt chi bộ định kỳ theo quy định , chuẩn bị chu đáo về nội dung và thông báo cho đảng viên biết . Nội dung sinh hoạt cấp uỷ , sinh hoạt chi bộ nên hướng vào những vấn đề bức xúc , thiết thực . Tuỳ thuộc nội dung mà cấp uỷ xem xét và lựa chọn hình thức sinh hoạt cho phù hợp như: sinh hoạt tư tưởng , sinh hoạt chính trị , sinh hoạt chuyên đề ... có thể vận dụng một hoặc kết hợp nhiều hình thức để nâng cao chất lượng và tính phong phú , đa dạng, tránh nhàm chán , nhưng phải bảo đảm tính lãnh đạo , tính giáo dục , tính chiến đấu . 4. Thường xuyên làm tốt công tác quản lý , kiểm tra đảng viên, nâng cao chất lượng đảng viên và làm tốt công tác kết nạp đảng viên mới. Thường xuyên giáo dục , bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên , mà nội dung cơ bản là học tập và làm theo tư tưởng , đạo đức Hồ Chí Minh . Kiên quyết đấu tranh khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức , lối sống trong cán bộ , đảng viên . Tăng cường công tác quản lý đảng viên , kiểm tra đảng viên , kể cả đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo sinh hoạt Đảng tại tổ chức cơ sở đảng . Thực hiện tốt việc phân công nhiệm vụ cho đảng viên và phát huy tính chủ động, sáng tạo của đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ . Đối với đảng viên cư trú , công tác , sinh hoạt tại các vùng đông dân có đạo và vùng đồng bào dân tộc thiểu số , phải nắm vững quan điểm , chính sách tôn giáo , dân tộc của Đảng và Nhà nước , am hiểu tình hình tôn giáo , dân tộc , có quan hệ tích cực với các chức sắc tôn

348

giáo , động viên họ góp phần tích cực thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương . Tổ chức cơ sở đảng và chi bộ phải xây dựng được quy chế kiểm tra đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được phân công , đánh giá chất lượng đảng viên . Thông qua công tác vận động quần chúng để rèn luyện đạo đức , lối sống , nâng cao tính tiên phong , gương mẫu cho đảng viên . Làm tốt công tác phát triển đảng viên , đặc biệt là vùng có nhiều khó khăn , vùng sâu , vùng xa , vùng dân tộc thiểu số , tôn giáo . 5. Động viên và tổ chức nhân dân tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và cán bộ , đảng viên . Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở . Phát động mạnh mẽ phong trào quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp ý kiến phê bình cán bộ , đảng viên . Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Chính trị , Ban Bí thư Trung ương . Thông tri số 06 của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , trong năm 2004 - 2005 , Mặt trận Tổ quốc các cấp ở Ninh Bình đã tổ chức lấy ý kiến bỏ phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch Hội đồng nhân dân , Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn đạt kết quả tốt , góp phần đánh giá đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở . Trên cơ sở kết quả đó , đề nghị Trung ương có chủ trương , hoàn thiện cơ chế tạo điều kiện cho các đoàn thể quần chúng , nhân dân tham gia giám sát các công việc và phẩm chất đạo đức , lối sống của cán bộ , đảng viên , đặc biệt là cán bộ lãnh đạo , quản lý , bí thư cấp uỷ và người đứng đầu cơ quan , đơn vị ; kịp thời phát hiện , đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực , quan liêu , tham nhũng , lãng phí . Đối với các khiếu nại , tố cáo của nhân dân có liên quan đến cán bộ , đảng viên , phải xem xét nghiêm túc , xử lý kịp thời và trả lời để dân biết ; không né tránh , đùn đẩy ; không tắc trách , quan liêu . Cần có các hình thức tổ chức thích hợp sinh hoạt định kỳ để cán bộ, đảng viên tự phê bình trước dân , lắng nghe và tiếp thu những ý

349

kiến của dân , có kế hoạch sửa chữa những khuyết điểm mà dân nêu ra . 6. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo , chỉ đạo , kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với tổ chức cơ sở đảng .

Cấp uỷ cấp trên cần khảo sát , đánh giá đúng thực trạng tình hình , có kế hoạch , biện pháp cụ thể đối với từng tổ chức cơ sở đảng. Đối với các đơn vị yếu kém phải xác định đúng nguyên nhân , từ đó có biện pháp thích hợp để khắc phục . Phải phân công các cấp uỷ viên phụ trách địa bàn , kịp thời báo tháo gỡ những vướng mắc , khó khăn cùng cơ sở . Cán bộ lãnh đạo chủ trì và cấp uỷ cấp trên trực tiếp phải chịu trách nhiệm liên đới nếu để tổ chức cơ sở đảng yếu kém . Tăng cường công tác kiểm tra của cấp uỷ cấp trên đối với cấp uỷ , tổ chức cơ sở đảng cấp dưới . Phải xây dựng chương trình , kế hoạch kiểm tra ( định kỳ , sáu tháng, một năm , kiểm tra đột xuất ...) và tổ chức thực hiện nghiêm túc . Các tổ chức cơ sở đảng phải thường xuyên kiểm tra để chủ động ngăn ngừa vi phạm khuyết điểm . Kết hợp với sinh hoạt chi bộ để kiểm tra đảng viên thực hiện nghị quyết , nhiệm vụ được giao . Duy trì nghiêm túc chế độ giao ban , phản ánh tình hình , tổng kết rút kinh nghiệm , nhân điển hình , khen thưởng và phê bình kịp thời . 7. Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh phải gắn chặt với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh.

Tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm túc phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm , xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt , phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội . Đổi mới và nâng cao năng lực cụ thể hoá và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước ở địa phương, đơn vị là nhiệm vụ trọng yếu của cấp uỷ đảng và tổ chức cơ sở đảng .

350

Xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh , trước hết phải nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội , xây dựng đời sống văn hoá , bảo đảm an ninh trật tự , năng lực giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra , thiết thực chăm lo nâng cao đời sống vật chất , tinh thần của nhân dân . Phải lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc và lợi ích chính đáng của nhân dân làm thước đo để đánh giá chất lượng cán bộ , đảng viên , chất lượng lãnh đạo của cấp uỷ và là tiêu chuẩn để đánh giá tổ chức cơ sở đảng trong sạch , vững mạnh . Chăm lo xây dựng chính quyền cơ sở , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội , bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở hướng vào việc phát triển kinh tế - xã hội , bảo đảm an ninh chính trị , trật tự xã hội , khơi dậy và phát huy mọi nguồn lực của nhân dân , không ngừng nâng cao trình độ dân sinh , dân trí và dân chủ , nâng cao đời sống nhân dân . Từ thực tiễn ở Ninh Bình , chúng tôi đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo , sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng , đóng góp vào tiếng nói chung của cả nước để xây dựng tổ chức cơ sở đảng thật sự là hạt nhân chính trị ở cơ sở , đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới , phấn đấu vì mục tiêu " dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh " .

351

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM CỦA DÂN , DO DÂN , VÌ DÂN LÀ YÊU CẦU BỨC THIẾT CỦA SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

( Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp )

Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những thành tựu to lớn , có ý nghĩa lịch sử . Một trong những đột phá về tư duy lý luận của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới là đề xướng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân , vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng như là một tất yếu khách quan mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta . Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những tiền đề bắt nguồn từ lịch sử 60 năm xây dựng Nhà nước ta , đặc biệt trong 20 năm đổi mới , là sự kế thừa và phát triển tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh , sự tiếp thu có chọn lọc các giá trị của học thuyết nhà nước pháp quyền của nhân loại . Tại Đại hội này , theo chúng tôi , cần tiếp tục khẳng định tính quy luật và những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Những đặc trưng đó vừa thể hiện những giá trị phổ biến của học thuyết nhà nước pháp quyền , vừa thể hiện những giá trị đặc thù trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá

352

trình lâu dài , phức tạp , lại không có sẵn một mô hình nào nên chúng ta phải vừa làm , vừa nghiên cứu , tìm tòi , sáng tạo , rút kinh nghiệm và tổng kết thực tiễn . Vì vậy , chúng tôi nhất trí cao với việc Báo cáo chính trị dành riêng phần XI để nói về phát huy dân chủ , tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , và xin có thêm một số ý kiến sau đây : 1. Những bước đi đầu tiên của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã đạt được những kết quả quan trọng . Các giá trị, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền đã được phản ánh rõ nét trong hoạt động của bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội . Điều dễ nhận thấy là dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy ; bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân , do dân , vì dân , tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã được thể hiện như Bác Hồ từng chỉ rõ : " Ở nước ta , bao nhiêu lợi ích đều vì dân . Bao nhiêu quyền hạn đều của dân ... , quyền hành 1 và lực lượng đều ở nơi dân" . Việc đẩy mạnh quá trình dân chủ hoá xã hội trên nhiều lĩnh vực đã tạo điều kiện nâng cao trình độ và năng lực làm chủ của nhân dân , trong đó có làm chủ bằng nhà nước và thông qua nhà nước . Tuy nhiên , cũng phải thừa nhận rằng nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân chưa được làm sáng tỏ về lý luận và chưa được thể chế hoá đầy đủ , nên trong thực tiễn , chưa có cơ chế hữu hiệu để nhân dân tham gia có hiệu quả vào việc quản lý nhà nước . Chế độ bầu cử cơ quan đại diện có nơi , có lúc vẫn còn hình thức , cử tri chưa thật mặn mà khi thực hiện quyền bầu cử . Cơ chế giám sát của nhân dân đối với chính quyền còn lỏng lẻo , chưa được đề cao đúng mức . Để khắc phục tình trạng này , cần làm rõ hơn về mặt lý luận và có cơ chế hợp lý giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước , nhân dân theo nguyên tắc nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước . Cần mở rộng hơn nữa hình thức dân chủ

353

trực tiếp , tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước . 2. Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất , có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp , hành pháp , tư pháp là nét đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Chúng ta đã làm được nhiều việc để thực hiện nguyên tắc đó . Một luận điểm rút ra trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa những năm qua là : " Sự thống nhất quyền lực là nền tảng , còn sự phân công và phối hợp là phương thức để đạt được sự thống nhất đó" , nhằm bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân , thống nhất ở nhân dân . Các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân , của đất nước.

Nhưng trong thực tế , việc áp dụng nguyên tắc nói trên còn nhiều khiếm khuyết và bất cập . Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa thật sự rõ ràng , còn chồng chéo , trùng lắp về chức năng , nhiệm vụ . Vẫn còn hiện tượng đùn đẩy , né tránh trách nhiệm trước những sai phạm và khuyết điểm . Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục làm rõ nội dung của nguyên tắc này để làm cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước . Trước hết , cần đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng tăng cường năng lực lập pháp của Quốc hội . Tăng cường năng lực của Hội đồng Dân tộc , các Uỷ ban của Quốc hội , nghiên cứu thành lập mới Uỷ ban Tư pháp , Uỷ ban Kinh tế . Nâng cao vai trò giám sát của Quốc hội , đổi mới căn bản phương thức giám sát (chất vấn tại kỳ họp , bỏ phiếu tín nhiệm ) . Cần tăng hợp lý số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách , giảm dần số đại biểu Quốc hội là người của cơ quan hành chính các cấp , bảo đảm các điều kiện về cán bộ , vật chất , kỹ thuật cần thiết cho hoạt động của đại biểu Quốc hội . Sinh hoạt của Quốc hội cần hướng vào thảo luận dân chủ , tranh luận công khai và mang tính đối thoại nhiều hơn . Việc

354

tiếp xúc của đại biểu Quốc hội với cử tri phải được tiến hành định kỳ thường xuyên hơn , tránh hình thức ; có cơ chế bảo đảm được sự kiểm tra và giám sát của cử tri đối với đại biểu Quốc hội . Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần một nền hành chính vững mạnh , chuyên nghiệp và từng bước hiện đại . Chính phủ với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất phải thể hiện là một thiết chế đầu não , nhanh nhạy trong chỉ đạo , điều hành và thực hiện nhiệm vụ xây dựng thể chế , chính sách

ở tầm

vĩ mô, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất - kinh doanh , mở đường, khai thông các quan hệ kinh tế với các quốc gia , các tổ chức quốc tế , cung cấp các dịch vụ công . Chính phủ cần tập trung nguồn lực chủ yếu của Nhà nước vào việc thực hiện các nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng , an ninh , xây dựng cơ sở hạ tầng, thực hiện các chính sách xã hội , tổ chức phòng chống tham nhũng có hiệu quả , tăng cường kỷ cương hành chính , kỷ luật công vụ , xác định rõ chế độ trách nhiệm của người đứng đầu , bảo đảm cho một nền hành chính thực sự trong sạch , vững mạnh , hoạt động thông suốt , có hiệu lực , hiệu quả . Cùng với việc tăng cường đầu tư của Chính phủ , cần đẩy mạnh xã hội hoá các lĩnh vực hoạt động mà ở đó không cần có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước để phát huy mạnh mẽ tính tích cực , chủ động và các nguồn lực của nhân dân , doanh nghiệp và của cả xã hội . Đối với chính quyền địa phương , cần đẩy mạnh việc phân cấp , phân quyền theo hướng tăng tính tự quản , đề cao trách nhiệm và tính chủ động, sáng tạo của họ , thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ , bảo đảm yêu cầu thống nhất cao của nền hành chính . Tránh các hiện tượng cục bộ , bản vị và cát cứ trong quản lý , điều hành xã hội và nhà nước . Đối với hệ thống tư pháp , cần bảo đảm tính công minh , khách quan , tính độc lập của toà án và các cơ quan tư pháp , bảo đảm khả năng giám sát lẫn nhau trong từng khâu của quá trình tố tụng , ở

355

từng cấp xét xử , thực hiện tốt việc tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc : " Khi xét xử , thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" . Tổ chức các toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử , không theo đơn vị hành chính lãnh thổ như hiện nay ; đào tạo , bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán và các chức danh tư pháp khác như điều tra viên , kiểm sát viên , chấp hành viên , luật sư ... có trình độ chuyên môn , nghiệp vụ cao , có đạo đức nghề nghiệp trong sáng và có bản lĩnh , dũng cảm bảo vệ công lý , bảo vệ lợi ích của Nhà nước , xã hội , quyền và lợi ích hợp pháp của công dân ; chống oan , sai và chống bỏ lọt tội phạm . Các cơ quan điều tra , kiểm sát , thi hành án , các cơ quan , tổ chức bổ trợ tư pháp cũng cần được tiếp tục đổi mới theo tinh thần và nội dung Nghị quyết số 49/NQ - TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 . 3. Tính tối thượng của Hiến pháp và các đạo luật là một đặc trưng rất quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Yếu tố này đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật đồng bộ , thống nhất , khả thi , công khai và minh bạch để Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa , xử lý kịp thời , nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật , tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước , xã hội , quyền và lợi ích hợp pháp của công dân , ngăn ngừa mọi sự tuỳ tiện , lạm quyền từ phía các cơ quan nhà nước , cán bộ công chức nhà nước . Trong Nhà nước pháp quyền , tất cả các cơ quan nhà nước , tổ chức , cá nhân , kể cả tổ chức đảng và đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật . Pháp luật phải được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh . Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống lành mạnh , có văn hoá và trật tự . Tuy nhiên , so với các yêu cầu của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng đầy đủ . Vẫn còn tình trạng mâu thuẫn , chồng chéo ,

356

chưa bảo đảm tính thống nhất và khả thi , chậm đi vào cuộc sống , tính ổn định và dự báo còn thấp , vẫn còn những khoảng trống trong một số lĩnh vực chưa được pháp luật điều chỉnh , gây ra những hậu quả đáng tiếc . Nhiều quy định của pháp luật chưa bám sát thực tiễn của cuộc sống , chưa phản ánh đầy đủ ý chí , nguyện vọng của nhân dân . Vì vậy , cần khẳng định rõ nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật là một đòi hỏi khách quan , một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới . Trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ quy trình lập pháp , bảo đảm tính dân chủ , khoa học . Trong Nhà nước pháp quyền , Quốc hội cần tập trung ban hành các đạo luật , giảm bớt và tiến tới không ban hành pháp lệnh . Cùng với việc ban hành các bộ luật , đạo luật lớn có phạm vi điều chỉnh rộng , Quốc hội cũng cần ban

hành các đạo

luật ngắn gọn hoặc làm một luật để sửa đổi nhiều luật có liên quan , như vậy vừa tiết kiệm được thời gian , công sức , vừa giải quyết được kịp thời các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội đang đặt ra . Xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay ở nước ta cần hướng vào hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , khẳng định nguyên tắc " công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm " , " cơ quan nhà nước và công chức nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định " , đồng thời tập trung hoàn thiện pháp luật về các thiết chế trong hệ thống chính trị , bảo đảm quyền con người , quyền công dân , pháp luật về giáo dục , đào tạo , khoa học , công nghệ , môi trường, về quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội , về hội nhập quốc tế, .. theo tinh thần và nội dung đã được xác định rõ trong Nghị quyết số 48/ NQ - TW của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam , nhằm tạo lập một khuôn khổ pháp lý đồng bộ , tạo động lực cho sự phát triển mạnh mẽ và vững chắc của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá .

357

Xây dựng pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống là hai mặt của nhiệm vụ tăng cường pháp chế. Pháp luật có nghiêm thì xã hội mới ổn định , thế nước mới vững chãi . Vì vậy , cần tổ chức tốt hơn việc triển khai thực hiện pháp luật , đẩy mạnh công tác tuyên truyền , phổ biến pháp luật với nhiều hình thức phong phú , thích hợp với từng đối tượng và địa bàn nhằm nâng cao ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của cán bộ , nhân dân . Thực thi quyền lực và thi hành pháp luật trong Nhà nước pháp quyền luôn luôn cần đến sự kiểm tra , giám sát . Cần hoàn thiện ở mức cao nhất cơ chế kiểm tra , giám sát việc thực hiện quyền lực , làm cho quyền lực đó luôn luôn đặt dưới sự ràng buộc của pháp luật , chịu sự giám sát của nhân dân , tránh việc lạm dụng quyền lực , vi phạm pháp luật . Do vậy , cần phải tăng cường cơ chế tự kiểm tra của các cơ quan nhà nước , nghiên cứu thành lập cơ chế bảo hiến (có thể thành lập Toà án Hiến pháp) để bảo đảm các đạo luật , các hành vi công quyền không được trái với Hiến pháp , vi phạm Hiến pháp ; mở rộng thẩm quyền các toà án hành chính trong xét xử các quyết định hành chính , hành vi hành chính trái pháp luật . 4. Về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa , thời gian qua , chúng ta đã từng bước làm rõ hơn nhiệm vụ của Đảng cầm quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa . Đã đẩy mạnh dân chủ hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước , coi trọng việc lãnh đạo thể chế hoá Nghị quyết thành các đạo luật , quy chế hoá việc thực hiện chức năng , nhiệm vụ của các cơ quan đảng, mối quan hệ làm việc giữa Đảng và một số cơ quan của Nhà nước , quy trình hoá công tác cán bộ ... , góp phần làm giảm bớt tình trạng các cấp uỷ đảng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc bao biện , áp đặt , làm thay các cơ quan nhà nước . Để Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phát huy tốt vai trò của mình , cần tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo

358

của Đảng , phát huy được dân chủ trong Đảng , trong xã hội , thực hiện nghiêm túc , thường xuyên việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Cần sắp xếp , đổi mới tổ chức bộ máy của Đảng, đặc biệt là các Ban Đảng , Đảng đoàn , Ban cán sự , Đảng uỷ khối ở Trung ương và cấp uỷ các địa phương, gắn với việc kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan nhà nước , đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân , bảo đảm tinh gọn , hoạt động thiết thực , hiệu quả , khắc phục tình trạng chồng chéo , trùng lắp về chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan , tổ chức đó ; xây dựng , hoàn thiện hệ thống văn bản quy định cụ thể về nguyên tắc , nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực : lập pháp , hành pháp , tư pháp ; tiếp tục hoàn thiện quy chế về quy hoạch , lựa chọn , đào tạo , bồi dưỡng , bố trí , sử dụng , kiểm tra và kỷ luật cán bộ theo hướng ngày càng công khai , chặt chẽ và dân chủ hơn ; tăng cường công tác giám sát , kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành đường lối , chính sách , Điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước . Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài , cần có phương hướng và bước đi thích hợp , dưới sự lãnh đạo sát sao của Đảng . Vì vậy , chúng tôi đề nghị bô sung nhiệm vụ " Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân , vì dân " vào Phần IV của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta . Với tầm quan trọng và ý nghĩa của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân , do dân , vì dân như vậy , có thể nói rằng , Nhà nước pháp quyền được xây dựng nhanh hay chậm , điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình của công cuộc đổi mới . Chúng tôi tin tưởng rằng , với tinh thần trách nhiệm , đoàn kết , đổi mới , dân chủ và trí tuệ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X , nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền sẽ được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi trong nhiệm kỳ Đại hội lần này .

359

ĐỔI MỚI TỔ CHỨC BỘ MÁY VÀ CHẾ ĐỘ , CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI CÁN BỘ , CÔNG CHỨC HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở CƠ SỞ XÃ , PHƯỜNG , THỊ TRẤN ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Long An )

Hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường , thị trấn là cấp cuối cùng , cấp sát dân nhất trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay , có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối , chính sách của Đảng , pháp luật của Nhà nước , tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân , phát huy quyền làm chủ của nhân dân , huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội , tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư, ổn định an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội tại cơ sở . Trong 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới , cùng với sự đổi mới , phát triển mạnh mẽ về kinh tế - xã hội , hệ thống chính trị ở CƠ SỞ xã , phường , thị trấn đã từng bước được đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển , ổn định của xã hội . Trước sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , Đảng ta đã chú ý hơn đến việc đẩy mạnh đổi mới về chính trị, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh , bền vững . Với yêu cầu đó , Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm khoá IX đã bàn và ra Nghị quyết " về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường , thị trấn " . Đồng thời, trên cơ sở Nghị quyết Trung ương năm khoá IX , Chính phủ ban hành Nghị định số 21/2003/ NĐ -CP

360

ngày 21-10-2003 “về chế độ , chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã , phường, thị trấn " . Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương và Nghị định của Chính phủ nói trên thể hiện rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường , thị trấn , bước đầu tạo được sự phấn khởi trong đội ngũ cán bộ , công chức ở cơ sở , phấn đấu hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao . Tuy nhiên , so với yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội , hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường, thị trấn ngày càng bộc lộ những mặt yếu kém , bất cập trong công tác lãnh đạo , quản lý , tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương ; trình độ của đội ngũ cán bộ ở cơ sở thấp ; chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức cơ sở còn nhiều điều bất hợp lý . Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở các vấn đề sau :

Một là, hiện nay , theo quy định của Trung ương, các chức danh bí thư đảng uỷ , chủ tịch hội đồng nhân dân , chủ tịch uỷ ban nhân dân xã , phường, thị trấn đều riêng biệt . Vì vậy , khi có nghị quyết của đảng uỷ thì việc cụ thể hoá nghị quyết của Đảng do đồng chí chủ tịch uỷ ban nhân dân chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện . Nhưng , con đường từ chỗ có nghị quyết của Đảng đến việc cụ thể hoá thành kế hoạch của Nhà nước chưa rõ , có lúc gián đoạn ; mặt khác , khi Hội đồng nhân dân có nghị quyết thì vai trò của lãnh đạo của Đảng như thế nào? Uỷ ban nhân dân cụ thể hoá nghị quyết của Hội đồng nhân dân ra sao? ... còn lúng túng, hoạt động của Uỷ ban nhân dân có lúc mang tính sự vụ , sự việc theo sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân cấp trên , việc giám sát của Hội đồng nhân dân mà đứng đầu là đồng chí chủ tịch hội đồng nhân dân không rõ ràng . Từ đó , trong công tác lãnh đạo , quản lý , điều hành có lúc bao biện , lấn sân , có lúc buông lỏng . Điều đó thể hiện rất rõ khi đồng chí bí thư đảng uỷ có trình độ , năng lực trội hơn đồng chí chủ tịch và ngược lại .

361

Hai là, về chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ , công chức xã phường, thị trấn . Mặc dù Nghị định số 121 /2003/NĐ - CP , ngày 21-10-2003 của Chính phủ đã có những quy định mới về chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức xã , phường , thị trấn (như: quy định về số lượng cán bộ , công chức xã , phường , thị trấn ; quy định về chế độ , chính sách đối với cán bộ chuyên trách , công chức và cán bộ không chuyên trách xã , phường , thị trấn ...) , nhưng so với thực tế còn nhiều hạn chế , bất cập . Một mặt , việc phân chia cán bộ , công chức xã , phường , thị trấn thành các đối tượng : cán bộ chuyên trách , công chức và cán bộ không chuyên trách là không phù hợp với vai trò , vị trí của hệ thống chính trị ở cơ sở , một bộ phận trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay . Mặt khác , chế độ lương của cán bộ , công chức xã , phường, thị trấn quá thấp và bất hợp lý . Theo Nghị định số 121 /2003/NĐ - CP , lương của bí thư cấp uỷ xã , phường , thị trấn : hệ số 2,0 ; phó bí thư cấp uỷ , chủ tịch hội đồng nhân dân , chủ tịch uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn : hệ số 1,9 thì quả là quá thấp và không tương xứng với nhiệm vụ của cấp xã . Bên cạnh đó , một số chức danh khác cũng rất quan trọng trong các tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở xã , nhưng không được coi là cán bộ chuyên trách hay công chức , do đó chỉ được hưởng chế độ phụ cấp và không có chế độ bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế... Quy định về chế độ lương , bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế như vậy làm cho đội ngũ cán bộ , công chức ở cơ sở xã , phường , thị trấn hiện nay có sự phân biệt , không an tâm cống hiến sức lực , trí tuệ cho công việc ... Những hạn chế trong tổ chức bộ máy và chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức nói trên ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở . Như vậy , rõ ràng thực tiễn hiện nay đang đòi hỏi phải đổi mới hệ thống chính trị căn bản hơn nữa , rộng lớn hơn , đồng bộ hơn với đổi mới kinh tế ; khắc phục những biểu hiện lo mất ổn định không

362

dám đổi mới về mặt tổ chức bộ máy, về phương thức lãnh đạo của Đảng và chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức xã , phường, thị trấn , đặc biệt là vấn đề lương để hệ thống chính trị hoạt động có hiệu quả và hệ thống cán bộ , công chức năng động, linh hoạt , được chăm sóc tốt hơn , làm việc tận tuy hơn , trong sạch hơn ... Đây là vấn đề khách quan và bức xúc hiện nay . Nhằm đáp ứng yêu cầu khách quan đó , Đoàn đại biểu tỉnh Long An xin báo cáo với Đại hội và Trung ương một số vấn đề chủ yếu sau đây : Thứ nhất , đề nghị Trung ương cho thực hiện mô hình bí thư kiêm chủ tịch uỷ ban nhân dân xã , phường, thị trấn . Mô hình này có ưu điểm : đồng chí bí thư và chủ tịch là một người , nên khi Đảng có nghị quyết thì việc cụ thể hoá và tổ chức triển khai thực hiện nhanh chóng, khắc phục được tình trạng gián đoạn trong lãnh đạo như đã nêu trên , do đó công tác lãnh đạo , chỉ đạo , quản lý điều hành được trôi chảy và hiệu quả hơn . Vấn đề đặt ra là : nếu chúng ta thực hiện mô hình nhất thể hoá chức danh bí thư và chủ tịch có dẫn đến tình trạng gia trưởng , độc đoán , chuyên quyền hay không? Vấn đề này không đáng ngại , vì nếu chúng ta xây dựng được quy chế làm việc chặt chẽ , rõ ràng , đồng thời lựa chọn cán bộ bảo đảm tiêu chuẩn về chính trị , đạo đức , năng lực , trình độ , có ý thức Đảng , tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ , tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách để bố trí vào chức danh đó ; mặt khác , hoạt động của đồng chí bí thư kiêm chủ tịch uỷ ban nhân dân còn có sự theo dõi , giám sát của tập thể ban thường vụ , đảng uỷ cơ sở , còn có sự theo dõi của cấp trên nên tình trạng gia trưởng , độc đoán , chuyên quyền khó xảy ra . Tuy nhiên , thực tế cũng cho thấy , nếu chúng ta không chặt chẽ trong công tác tổ chức thì tình trạng gia trưởng , độc đoán , chuyên quyền cũng có thể xảy ra khi chức danh bí thư , chủ tịch là hai người khác nhau . Chẳng hạn , nếu bí thư là người có năng lực , trình độ cao hơn chủ tịch , nhưng thiếu

363

tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ , cho rằng mình giỏi hơn người khác , coi thường , lấn lướt , chi phối đồng chí chủ tịch thì cũng xảy ra gia trưởng , độc đoán và ngược lại , đồng chí chủ tịch cũng có thể lấn lướt đồng chí bí thư , chứ không chỉ xảy

ra khi

nhất thể hoá hai chức danh đó . Vấn đề quan trọng nhất để tránh tình trạng gia trưởng , độc đoán , chuyên quyền , vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là phải xây dựng quy chế làm việc chặt chẽ , rõ ràng và làm tốt công tác cán bộ . Để mô hình bí thư kiêm chủ tịch hoạt động có hiệu quả , ngoài việc xây dựng được quy chế làm việc rõ ràng và lựa chọn được cán bộ tốt , cần phải có chế độ lương , phụ cấp phù hợp . Ví dụ , bí thư kiêm chủ tịch thì ngoài hưởng lương bí thư còn phải được hưởng ít nhất là 50 % lương chủ tịch . Có như vậy mới phù hợp với sự cống hiến của cán bộ , khuyến khích động viên cán bộ yên tâm công tác . Vấn đề này phải có quy định cụ thể của Nhà nước thì mới thực hiện được . Trước đây , tỉnh Long An cũng đã làm thí điểm mô hình này , qua thực tế cho thấy có hiệu quả , nhưng không thể triển khai nhân rộng được do không có quy định của Nhà nước về chế độ lương , phụ cấp phù hợp với cống hiến của cán bộ . Thứ hai, cần quan niệm đúng đắn , đầy đủ về cán bộ , công chức xã , phường , thị trấn và chế độ , chính sách đối với đội ngũ này như là một cấp trong bốn cấp của hệ thống chính trị cả nước . Theo đó , đội ngũ cán bộ xã , phường, thị trấn chỉ có hai đối tượng : cán bộ và công chức (không phân biệt cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách như hiện nay) . Điều này có ý nghĩa rất quan trọng, tạo ra sự liên thông trong công tác quy hoạch , bố trí , sử dụng , luân chuyển cán bộ từ tỉnh , huyện xuống cơ sở và ngược lại . Do đó, sẽ khắc phục được vấn đề nan giải hiện nay ở cơ sở là đội ngũ cán bộ có trình độ thấp và thiếu hụt , khó đưa cán bộ trẻ , có trình độ đại học về cơ sở . Đồng thời , cần phải xem xét có chế độ , chính sách , nhất là lương

364

cho cán bộ , công chức xã , phường , thị trấn phù hợp , công bằng , tương xứng với các cấp trong hệ thống chính trị nhằm cải thiện , nâng cao đời sống và nâng cao tinh thần trách nhiệm , sự tận tuy của đội ngũ cán bộ , công chức . Chẳng hạn : lương của đồng chí bí thư, phó bí thư cấp uỷ ; chủ tịch , phó chủ tịch hội đồng nhân dân ; chủ tịch , phó chủ tịch uỷ ban nhân dân xã , phường , thị trấn có hệ số lương gấp đôi hiện tại hoặc cũng có mức lương ngang với trưởng, phó phòng ban , đoàn thể cấp huyện . Vì thực tế công việc của cán bộ chủ chốt xã , phường , thị trấn có khi còn nặng hơn một số phòng , ban , đoàn thể cấp huyện . Thứ ba, đi liền với các vấn đề nói trên , cần sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị ở cơ sở theo hướng tinh gọn . Theo đó , ngoài việc nhất thể hoá chức danh bí thư, chủ tịch , các chức danh còn lại trong hệ thống chính trị ở xã , phường, thị trấn cũng phải đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ theo khả năng , trình độ đã được nâng lên và do đó mức lương cũng tăng lên . Nếu làm được như vậy thì hiệu quả hoạt động của bộ máy tổ chức có hiệu lực , hiệu quả hơn . Hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường, thị trấn hiện đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi Trung ương phải có những chủ trương , biện pháp đổi mới mạnh mẽ hơn nữa ; phải quan tâm nhiều hơn đến cấp cơ sở ; làm cho hệ thống chính trị ở cơ sở hoạt động có hiệu quả nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội , nâng cao đời sống nhân dân , bảo đảm ổn định chính trị tại cơ sở , góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước . Điều đặc biệt đáng quan tâm nhất hiện nay là phải đổi mới tổ chức bộ máy , phương thức lãnh đạo của Đảng và chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường , thị trấn . Đây là những vấn đề lớn thuộc thẩm quyền của Trung ương . Trước mắt , nếu Trung ương thấy cần thiết phải cân nhắc , thử nghiệm thì xin phép cho tỉnh Long An được làm thí điểm trước . Trên đây là những băn khoăn , trăn trở của Đảng bộ và nhân

365

dân Long An mà Đoàn đại biểu Long An xin báo cáo , đề xuất với Đại hội . Hy vọng qua tham luận này có thể cung cấp cho Đại hội những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn hiện nay ở cơ sở để Đại hội có những quyết sách đúng đắn nhằm tháo gỡ những khó khăn , vướng mắc , khắc phục những hạn chế , nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cả nước nói chung và hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường, thị trấn nói riêng .

366

THỰC HIỆN TỐT QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC CƠ QUAN DÂN CỬ TRONG VIỆC GIÁM SÁT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định )

Dân chủ vừa là mục tiêu , vừa là động lực của cách mạng . Phát huy dân chủ ở cơ sở là nhằm động viên sức mạnh của các tầng lớp nhân dân vượt qua khó khăn , thử thách , thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng, đẩy lùi tiêu cực , suy thoái , xây dựng Đảng, chính quyền , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở vững mạnh . Chỉ thị số 30 -CT/ TW , ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là một chủ trương đúng đắn , hợp lòng dân của Đảng, được nhân dân đồng tình hưởng ứng. Quá trình triển khai thực hiện Quy chế dân chủ thực chất là quá trình sinh hoạt dân chủ góp phần quan trọng vào tiến trình mở rộng dân chủ , phát huy được trí tuệ và sức sáng tạo của mọi người , tạo nên sức mạnh tổng hợp về tinh thần và vật chất , củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền , góp phần giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội , xây dựng Đảng , chính quyền , cơ quan trong sạch , vững mạnh .

1. Khái quát tình hình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của tỉnh Nam Định

Thi hành Chỉ thị 30 -CT / TW của Bộ Chính trị , Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã tổ chức quán triệt nội

367

dung Chỉ thị 30 và các nghị định của Chính phủ về thực hiện Quy chế dân chủ , thống nhất quan điểm chỉ đạo , phương pháp tiến hành và phân công các đồng chí Uỷ viên Ban Thường vụ , Uỷ viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh trực tiếp chỉ đạo , tổ chức triển khai Quy chế thực hiện dân chủ với quan điểm : vững chắc , không làm lướt , không làm ồ ạt , phải có bước đi thích hợp ; tiến hành làm điểm rút kinh nghiệm , sau đó mới triển khai mở rộng. Đến nay , sau hơn 6 năm triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở , hầu hết các xã , phường , thị trấn , cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện nghiêm túc và mang lại những hiệu quả tích cực : tình hình an ninh chính trị của tỉnh được giữ vững, kinh tế ổn định và phát triển , hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở được củng cố , khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và mở rộng , tình hình an ninh nông thôn , trật tự an toàn xã hội được đảm bảo , hạn chế được những hiện tượng tiêu cực ... Tuy nhiên , việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nhiều nơi chưa thường xuyên ; kết quả chưa đạt so với yêu cầu đề ra ; chưa đồng đều giữa các loại hình cơ sở . Một số nội dung của Quy chế dân chủ chưa được thực hiện đầy đủ , kịp thời , nhất là các chế độ về công khai tài chính , tài sản , đất đai , chế độ chính sách đối với người lao động ...

2. Vai trò giám sát của các cơ quan dân cử Thực tế cho thấy , nhân dân luôn kỳ vọng và đòi hỏi ở mỗi đại biểu dân cử , những người đã được nhân dân tin tưởng bầu vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất , cơ quan quyền lực ở địa phương cần phải thực sự thay mặt nhân dân giám sát có hiệu quả hoạt động của bộ máy công quyền , giám sát việc làm của cán bộ , công chức nhà nước để bảo vệ lợi ích của nhà nước và của công dân . Hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử thực chất cũng chính là góp phần bảo đảm phát huy dân chủ một cách đầy đủ nhất .

368

Hoạt động giám sát của cơ quan dân cử trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở tập trung vào những nội dung chủ yếu : Theo dõi , đôn đốc việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở CƠ SỞ.

· Tham gia ý kiến với cấp uỷ , chính quyền mở rộng dân chủ theo chỉ thị và nghị quyết của Đảng , chỉ thị của Chính phủ . · Nắm tình hình và có ý kiến với chính quyền các cấp về việc xử lý công việc đối với dân . - Giám sát việc thực hiện của cán bộ , công chức đối với việc giải quyết , xử lý các đề nghị , yêu cầu , nguyện vọng chính đáng , hợp pháp của các đơn vị , tổ chức và nhân dân . Hàng tháng, Đoàn đại biểu Quốc hội , Hội đồng nhân dân tập hợp yêu cầu , nguyện vọng của nhân dân qua việc tiếp công dân , đơn , thư khiếu nại , tố cáo của công dân để yêu cầu các cấp chính quyền giải trình và xử lý , đồng thời yêu cầu các ngành , các cấp , các địa phương xác định làm rõ trách nhiệm của lãnh đạo , cá nhân trong việc thi hành công vụ .

3. Thực tế công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với cán bộ, công chức ở Nam Định Căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội và Luật giám sát của Quốc hội , Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Nam Định đã cùng với các Uỷ ban của Quốc hội và tự mình tổ chức nhiều cuộc giám sát về những vấn đề cụ thể tại các huyện , ngành của tỉnh . Thông qua hoạt động giám sát này , đại biểu Quốc hội thay mặt nhân dân kiểm tra được hoạt động của các ngành và cá nhân lãnh đạo của các ngành , các địa phương trong việc chấp hành pháp luật , thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước . Tổ chức giám sát các hoạt động của các cấp chính quyền theo các chuyên đề , trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội , an ninh , quốc phòng . Đồng thời , các cơ quan dân cử giám sát hoạt động của

369

cán bộ , công chức trong việc thực hiện công vụ thông qua thực tiễn các hoạt động ở cơ sở , qua các yêu cầu , đề nghị của nhân dân , qua đơn , thư , qua tiếp xúc cử tri và đặc biệt qua các kỳ họp Hội đồng nhân dân . Tại kỳ họp hội đồng nhân dân các cấp , Hội đồng nhân dân đã nghe báo cáo của Uỷ ban nhân dân về các lĩnh vực , thực hiện chất vấn Uỷ ban nhân dân trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước , trong đó có các vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ . Hàng tháng , Hội đồng nhân dân tỉnh cùng Đoàn đại biểu Quốc hội , lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh tổ chức tiếp dân tại trụ sở tiếp dân của tỉnh . Hội đồng nhân dân cấp huyện , cấp xã cũng bố trí lịch tiếp dân theo quy định của luật . Trong các buổi tiếp dân , các cấp , các ngành đã trực tiếp lắng nghe ý kiến phản ánh của công dân , ghi nhận , hướng dẫn công dân đi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết . Công tác tiếp dân được đổi mới , sau mỗi buổi tiếp dân , các cấp , các ngành đã đôn đốc , chỉ đạo các cơ quan chức năng giải quyết khiếu nại , tố cáo của công dân , không gây phiền hà , hạn chế không để công dân đi lại nhiều lần . Đơn , thư khiếu nại tố cáo thuộc thẩm quyền đều được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết . Cơ quan thanh tra các cấp đã làm tốt chức năng tham mưu , quản lý , hướng dẫn phân loại theo đúng quy định của pháp luật, nên tình trạng chuyển đơn vòng vèo , gây phiền hà đối với công dân từng bước được khắc phục . Tuỳ theo tình hình , thời gian cụ thể , Hội đồng nhân dân tổ chức đoàn giám sát chuyên đề về việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở , tập trung vào một số nội dung: Đối với xã , phường, thị trấn : tập trung giám sát về trách nhiệm của cán bộ xã trong công tác xử lý công việc cho nhân dân , tiếp dẫn và giải quyết khiếu nại , tố cáo của công dân ; công tác tài chính ở xã , phường , thị trấn ; giám sát việc quản lý , sử dụng, bảo vệ tài sản công trên địa bàn ; việc tổ chức và hoạt động của ban

370

thanh tra nhân dân, việc xây dựng tổ dân phố, thôn , xóm an toàn , xây dựng nếp sống văn minh . - Đối với cơ quan , đơn vị: Hội đồng nhân dân tập trung giám sát cán bộ , công chức theo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan , đơn vị , tập trung ở những vấn đề chính : việc thực hiện chế độ tài chính và sử dụng tài sản công của cơ quan ; việc thực hiện dân chủ trong công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật và nhận xét, đánh giá cán bộ , công chức hàng năm ; hoạt động của ban thanh tra nhân dân của cơ quan ; quy ước nếp sống văn hoá của cơ quan . - Thông qua hoạt động giám sát cho thấy : - Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được nhân dân đồng tình ủng hộ .

· Quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng và phát huy , động viên được sức mạnh của toàn dân trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của địa phương, đơn vị . - Bước đầu hạn chế được những vụ việc tiêu cực trong hoạt động của bộ máy chính quyền cơ sở , các cơ quan , cán bộ , công chức . Chất lượng đội ngũ cán bộ , công chức được nâng lên . Hoạt động của chính quyền cơ sở dần đi vào nền nếp . Song việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở cũng bộc lộ những hạn chế : - Cấp uỷ đảng, chính quyền một số nơi , đặc biệt là ở một số cơ sở chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nên chủ quan , làm lướt hoặc thờ ơ với việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ , chưa tạo được lòng tin trong nhân dân . Có nơi triển khai xong không duy trì , thiếu kiểm tra , đôn đốc nên việc thực hiện còn mang tính hình thức . · Một số nơi do chưa làm tốt công tác tuyên truyền , giáo dục nên một số cán bộ , công chức , người dân có thái độ thờ ơ , ít quan tâm nghiên cứu học tập , chưa hiểu đúng và đầy đủ những nội dung

371

của Quy chế dân chủ , đã có những đòi hỏi dân chủ quá trớn , tuỳ tiện , không chính đáng ; đòi hỏi nhiều quyền lợi hơn nhưng lại không nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ đối với địa phương , cơ quan , đơn vị .

- Việc thực hiện một số quy định công khai ở một số nơi còn chiếu lệ , không có tác dụng thực sự góp phần quản lý địa phương , cơ quan . Việc thực hiện một số quy định trong Nghị định số 71 chưa có hiệu quả thiết thực như : tổ chức hội nghị cán bộ công chức cơ quan , hoạt động của ban thanh tra nhân dân , thực hiện việc đánh giá cán bộ , công chức hàng năm ...

4. Từ thực tế thực hiện Quy chế dân chủ trong quá trình giám sát của các cơ quan dân cử đối với cán bộ, công chức ở Nam Định, có thể rút ra một số kết luận sau : Để thực sự phát huy dân chủ và nâng cao hơn nữa vai trò giám sát của đại biểu Quốc hội ở địa phương và Hội đồng nhân dân các cấp đối với việc làm của cán bộ , công chức cần giải quyết nhiều nội dung . Trước hết tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau : - Tăng cường công tác tuyên truyền , giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của cán bộ , đảng viên về ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và những nội dung của Quy chế dân chủ để cán bộ , đảng viên và các tầng lớp nhân dân hiểu và thực hiện đúng các nội dung của Quy chế dân chủ . -

Các tổ chức đảng phải trực tiếp lãnh đạo , chỉ đạo việc xây

dựng, thực hiện Quy chế dân chủ ; các cơ quan dân cử , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phải làm tốt vai trò kiểm tra , giám sát . - Thủ trưởng các cơ quan , đơn vị phải có trách nhiệm duy trì nền nếp , thường xuyên việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ quan , đơn vị ; gương mẫu , đi đầu trong việc thực hiện các quy chế , quy ước của cơ quan , đơn vị . Đề cao trách nhiệm cá nhân trong giải

372

quyết công vụ . Có nhiều hình thức dân chủ để nhân dân tham gia , góp ý với cán bộ , công chức . - Phải thường xuyên giáo dục nâng cao phẩm chất và năng lực cho cán bộ , công chức đáp ứng yêu cầu , nhiệm vụ được phân công . Phát huy quyền làm chủ của cán bộ , công chức gắn liền với việc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng , chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ , thực hiện chế độ thủ trưởng và phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể quần chúng . Thực hiện dân chủ phải gắn với đảm bảo kỷ cương ; phát huy dân chủ đồng thời kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân . Thực hiện công tác xây dựng Đảng gắn liền với hệ thống cơ chế , chính sách quản lý tổ chức bộ máy và cán bộ . Cần có cơ chế để tạo động lực cho cán bộ , công chức phát triển tư duy , năng động, sáng tạo và nâng cao trách nhiệm trong công việc . Các đại biểu của nhân dân cũng phải tự mình nâng cao trình độ , năng lực về mọi mặt để có thể đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ giám sát . Có thể nói , đây là điều kiện hết sức quan trọng để đại biểu dân cử thực sự phát huy được quyền hạn , nhiệm vụ của mình trong hoạt động giám sát . - Đại biểu dân cử cần được tạo điều kiện cần thiết để có thể làm tốt hơn chức năng giám sát của mình . Cần được quan tâm , bồi dưỡng kiến thức cần thiết , phù hợp , được tập huấn tốt về kỹ năng hoạt động đại biểu .

373

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, VIÊN CHỨC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP (Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ )

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương lớn , một quan điểm lớn mang tính chiến lược của Đảng ta . Đại hội Đảng lần thứ IX xác định , chúng ta cần " phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững " . Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 07 - NQ/TW và Chính phủ ban hành Chương trình hành động để thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị số 35/2002 . Như vậy , hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là một tất yếu mà trở thành một nhu cầu , một động lực , một công việc quan trọng trên con đường phát triển của chúng ta . Hội nhập kinh tế quốc tế hàm chứa một nội dung rất rộng lớn , phức tạp , liên quan đến nhiều hoạt động trên nhiều lĩnh vực , đòi hỏi sự nỗ lực rất cao . Chúng tôi xin đề cập một khía cạnh , đó là xây dựng đội ngũ cán bộ , viên chức nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập . Hơn 10 năm trước , sau rất nhiều cố gắng , nhất là sau khi giải quyết có hiệu quả vấn đề nợ quốc gia với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF ) và Ngân hàng Thế giới (WB) , quan hệ kinh tế đối ngoại của chúng ta đã có một bước đột phá cơ bản . Việc gia nhập Hiệp hội các nước

1. Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX , Nxb . Chính trị quốc gia , Hà Nội , 2001 , tr.89 .

374

Đông Nam Á (ASEAN ) , tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) , Hội nghị cấp cao Á - Âu (ASEM) , Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) , Hiệp định với Liên minh châu Âu ( EU) và Hiệp định Việt - Mỹ là những thành công lớn , góp phần nâng cao thế chủ động của chúng ta trong tiến trình hội nhập . Đặc biệt là hiện nay , chúng ta đang tiến hành những khâu cuối cùng trong đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) , và vào cuối năm nay , Việt Nam sẽ là nước chủ nhà đăng cai Hội nghị APEC , đó thực sự là những cơ hội lớn để chúng ta tiến những bước mạnh hơn , sâu hơn trên lộ trình này . Có thể nói , một triển vọng tốt đẹp đang mở ra ; đồng thời những khó khăn to lớn , thậm chí nan giải đang thách thức chúng ta . Bởi lẽ , hội nhập kinh tế quốc tế hàm chứa cả hai mặt : cơ hội và thách thức . Chúng ta biết rằng , cho đến nay , trên 90 % giao dịch thương mại thế giới thuộc về các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO ) . Do vậy , những nước còn lại sẽ gặp không ít khó khăn trên thương trường quốc tế. Trên nền tảng quan hệ ngoại giao với 167 nước , mở rộng quan hệ thương mại với 150 nước , phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ , việc gia nhập WTO sẽ là một cơ hội lớn để tiếp tục thực hiện đường lối của Đảng về tranh thủ nguồn lực nước ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh , có hiệu quả và bền vững . Với những ưu thế về nhiều mặt , nhất là sự ổn định chính trị , sẽ tạo điều kiện tốt cho chúng ta chủ động tiến lên trên lộ trình đã hoạch định . Song, sự cạnh tranh thiếu bình đẳng , những rủi ro luôn luôn rình rập , những quy chế khắt khe sẽ là ràng buộc , thách thức lớn , nếu không được trù định và giải quyết hữu hiệu , chúng ta phải chịu không ít thua thiệt và bỏ lỡ cơ hội . Có thể nói là cơ hội , thách thức , đạt được thành công hay gánh chịu thất bại trong lộ trình hội nhập , một phần cơ bản và quan

375

trọng nhất là chúng ta chuẩn bị sẵn sàng đến mức độ nào về nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ cán bộ , công chức - những người hoạch định và thực thi chính sách để thực hiện tốt đường lối của Đảng - nói riêng . Theo thể chế chính trị của nước ta , đội ngũ cán bộ , công chức được hiểu không chỉ giới hạn gồm những người làm việc trong bộ máy nhà nước , hay hẹp hơn là trong phạm vi nền hành chính quốc gia , mà là toàn thể những người hoạt động thường xuyên trong cả hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức của Đảng, của Nhà nước và của các tổ chức chính trị - xã hội . Trong đội ngũ đó , có những người hoạt động liên quan trực tiếp đến công việc hội nhập quốc tế , cũng có nhiều người hoạt động trên các lĩnh vực khác . Nhưng hội nhập xuyên suốt mọi lĩnh vực , mọi khâu , mọi quá trình kinh tế - xã hội , cho nên không cơ quan nào , cán bộ nào là không liên quan , chỉ khác nhau ở mức độ trực tiếp hay gián tiếp mà thôi . Bởi vậy , khi nói đến đội ngũ cán bộ , viên chức là nói đến toàn bộ đội ngũ cán bộ , công chức , viên chức của hệ thống chính trị . Hiện nay , chúng ta có khoảng 1,6 triệu cán bộ , công chức (không kể lực lượng vũ trang ), trong đó có khoảng 200 nghìn người làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước , 83 nghìn cán bộ , công chức thuộc cơ quan đảng , đoàn thể và khoảng 1,32 triệu viên chức sự nghiệp và 250 nghìn cán bộ chuyên trách ở xã , phường , thị trấn . Đội ngũ này chiếm khoảng 2 % dân số cả nước . Đó chưa phải là tỷ lệ cao so với nhiều quốc gia . Tuy nhiên , vấn đề quan tâm là , cơ cấu của bộ máy còn khá nhiều bất cập dẫn đến tình trạng vừa thiếu , vừa thừa . Bởi vậy , vấn đề trước hết là , rà soát lại cơ cấu , trên cơ sở chức năng , nhiệm vụ của từng bộ , từng địa phương , từng cơ quan , đơn vị của cả hệ thống chính trị . Từ đó , lập lại thế bố trí chiến lược .

Về chất lượng đội ngũ , có hai bình diện để xem xét . Trước hết là phẩm chất chính trị và phẩm hạnh đạo đức , lối sống . Đây là cái

376

" gốc " của cán bộ . Nếu cán bộ đánh mất "gốc " là tự đánh mất mình . Những năm qua xảy ra nhiều hiện tượng , có thể nói không phải là cá biệt : nhiều cán bộ đã không rèn luyện dẫn đến suy thoái tư tưởng chính trị , tham nhũng, thoái hoá trong sinh hoạt , làm tổn thất không nhỏ cho Đảng và Nhà nước và họ tự đánh mất chính mình . Đây là vấn đề rất hệ trọng . Vì vậy , đánh giá cán bộ là khâu hết sức quan trọng , cần tiếp tục đổi mới quy trình này một cách khoa học và hiệu quả . Khía cạnh thứ hai là năng lực của cán bộ . Nhân tố càng đặc biệt quan trọng khi tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế càng vào chiều sâu , nó quyết định sự thành bại của mỗi lĩnh vực hội nhập . Đảng và Nhà nước đã có cơ chế đào tạo , bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ cán bộ . Nhưng trên thực tế , thường xảy ra hiện tượng khi thì quá xem trọng phẩm chất , lúc lại chỉ đề cao năng lực cho nên đã lâm vào phiến diện , lệch lạc trong việc xem xét , sử dụng cán bộ . Tình trạng này dẫn đến vừa làm tổn hại phong trào , vừa làm thui chột cán bộ . Vì vậy , nhất thiết phải xem trọng đồng thời cả hai mặt này một cách chặt chẽ . Để thực hiện tốt yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế , một mặt phải xây dựng đồng bộ đội ngũ cán bộ , công chức của cả hệ thống chính trị ; mặt khác phải đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ những người trực tiếp làm công tác đối ngoại những người ứng phó thường xuyên với sự phát triển của hội nhập quốc tế . Điều cần nhấn mạnh là : mỗi công chức phải có sự hiểu biết chuyên môn , nghiệp vụ sâu sắc về lĩnh vực mà mình thực hiện . Nếu không , chúng ta không thể chủ động đề xuất những phương hướng phát triển , không chủ động ứng phó được với những hiện tượng làm phương hại đến lợi ích của chúng ta . Mỗi cán bộ , công chức phải có kiến thức rộng, hiểu biết bao quát về những vấn đề kinh tế , chính trị - xã hội có liên quan đến lĩnh vực cụ thể về luật pháp , về thương mại , về quan hệ quốc tế , về văn hoá - xã hội ,

377

lịch sử , phong tục của các quốc gia , về kỹ năng thương thuyết đàm phán ... đủ sức ứng phó với mọi tình huống trong giao dịch quốc tế ; phong cách lịch lãm , đồng thời , phải có phương pháp làm việc khoa học . Trong công việc phải hết sức linh hoạt và có tinh thần cảnh giác cao . Làm sao để mỗi công chức trong lĩnh vực này vừa phải là những người có chuyên môn sâu trên các lĩnh vực công tác , đồng thời vừa là những nhà ngoại giao luôn trong tư thế chủ động ; phải là người có lập trường quan điểm vững vàng, giữ vững kỷ cương , luôn đứng vững trên quan điểm , đường lối của Đảng, chính sách , pháp luật của Nhà nước để giải quyết công việc ; phải thành thạo ngoại ngữ , hiểu biết công nghệ thông tin . Về mặt pháp lý , chúng ta đang tiếp tục đổi mới nhằm xây dựng khung pháp lý phù hợp với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy đã có Pháp lệnh cán bộ , công chức nhưng thực tế cho thấy từ góc độ pháp lý , rõ ràng các quy định này chưa đủ hiệu lực để xử lý mọi tình huống . Với yêu cầu của thời kỳ đổi mới , cần xây dựng Luật công vụ . Đi sâu hơn , cùng với Luật công vụ , cần xây dựng Luật đạo đức cán bộ , công chức . Việc tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật chặt chẽ , nghiêm minh để điều chỉnh hoạt động của cán bộ , công chức là điều hết sức quan trọng , có ý nghĩa quyết định trong quá trình hội nhập quốc tế. Đó cũng là đòi hỏi khách quan . Vấn đề có ý nghĩa then chốt là , chúng ta tiếp tục đổi mới công tác tổ chức cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập . Trong rất nhiều vấn đề , ở đây phải đồng thời coi trọng 5 khâu : tuyển dụng , bổ nhiệm , đánh giá , luân chuyển và đào tạo cán bộ. Phải rất coi trọng khâu đầu tiên là khâu tuyển dụng . Cho đến nay khâu tuyển dụng cán bộ chúng ta còn nhiều vấn đề bức xúc như lạm dụng quyền lực đưa con cháu vào các cơ quan Đảng và chính quyền , đút lót chạy việc , mua bán văn bằng giả , thi cử hình thức , v.v ..

378

Vấn đề bổ nhiệm cán bộ cũng còn không ít nhức nhối . Quá trình thử thách , tập sự chỉ là hình thức , chiếu lệ dẫn đến tình trạng để lọt không ít người không hội đủ yêu cầu về đạo đức và trình độ vẫn được đề bạt và thăng tiến . Việc đánh giá cán bộ cũng còn nặng về hình thức và cảm tính . Nhiều người có sai phạm không bị phê phán , xử lý . Khâu điều động và luân chuyển cán bộ cũng còn mang tính chủ quan , chưa được khắc phục . Đào tạo cán bộ cho đến nay vẫn còn chạy theo số lượng mà chưa thật quan tâm đến chất lượng . Tất cả những điều đó xảy ra không phải là cá biệt đã ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Nhà nước . Bởi vậy , để đổi mới thực sự quy trình xây dựng đội ngũ cán bộ , trước mắt cần tập trung làm tốt những nội dung sau đây : + Thực hiện đầy đủ nguyên tắc công khai , minh bạch trong tất cả các khâu từ tuyển dụng đến sử dụng , đánh giá , đề bạt , luân chuyển cán bộ , + Việc đánh giá , đề bạt , điều động , luân chuyển cán bộ nhất thiết phải do tập thể quyết định và thực hiện đúng đắn chủ trương của Đảng về chính sách cán bộ trên cơ sở phát huy nguyên tắc dân chủ ;

+ Kiểm tra là khâu rất quan trọng trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ , viên chức . Ngoài việc kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền , cần rất coi trọng sự kiểm tra , giám sát của nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng ; + Quy hoạch cán bộ cũng là khâu rất quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ , viên chức . Kinh nghiệm cho thấy , quy hoạch chỉ thành công khi chúng ta lựa chọn một đội ngũ để từ đó chọn lựa những tài năng , thông qua thử thách để giao nhiệm vụ chứ không quy hoạch từng cá nhân với từng vị trí riêng biệt , nhằm tránh cho họ những áp lực của dư luận , từ đó không dám phát huy năng lực , chỉ nhằm giữ an toàn cho mình . Cho nên , quy hoạch cả một tập thể cán bộ là phương thức hiệu quả nhất ;

379

+ Cũng cần nhấn mạnh thêm là , muốn có một đội ngũ cán bộ mạnh , có chất lượng cao , chúng ta không thể không quan tâm đến việc tạo nguồn nhân lực . Để có được điều đó , chúng ta cần quan tâm nâng cao chất lượng của cả hệ thống giáo dục , đào tạo . Giáo dục , đào tạo phải góp phần tạo ra những con người tài năng , có lòng tự tôn và tự hào dân tộc , biết hết lòng phục vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân . Chúng ta có xây dựng được một đội ngũ cán bộ , công chức ngang tầm yêu cầu hội nhập hay không , cùng với các nhân tố trên , một phần quan trọng là tuỳ thuộc vào những điều kiện có tính chất cần và đủ . Ở đây , một số vấn đề tối thiểu và nổi bật như sau : Tiếp tục phân định một cách khoa học việc phân công , phân cấp quản lý đội ngũ cán bộ , công chức phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan như Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ , các bộ , ngành , các cơ quan trong hệ thống chính trị và các địa phương . Đồng thời , người đứng đầu các tổ chức phải chịu trách nhiệm cá nhân trong công tác tổ chức và cán bộ . Phát huy dân chủ , thực hiện nguyên tắc công khai , minh bạch trong mọi quá trình từ tuyển dụng đến sử dụng, đánh giá , luân chuyển cán bộ . Tiền lương là một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ , viên chức cần được quan tâm thoả đáng . Làm sao tiền lương phải bảo đảm cho cán bộ , viên chức thi hành công vụ yên tâm công tác và là yếu tố ràng buộc họ với công vụ . Cùng với tiền lương, các chế độ chính sách khác cũng cần được tiền tệ hoá để tránh sự lạm dụng quyền hạn để mưu lợi . Từng bước hoàn thiện quy chế làm việc công vụ theo hướng đảm bảo sự nghiêm túc của cơ quan công quyền, nhưng phải gần dân , thực sự phục vụ nhân dân . Tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm tra , giám sát của nhân dân đối với người thi hành công vụ , đồng thời xử lý nghiêm những hành vi

380

lợi dụng dân chủ gây phương hại đến lợi ích hợp pháp của cán bộ , viên chức . Tất cả mọi sự điều chỉnh , xử lý đối với cán bộ , công chức phải được thực hiện trên cơ sở của pháp luật . Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi rất bức xúc trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ , viên chức . Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới , một phần cơ bản và quyết định là do chúng ta xây dựng được đội ngũ cán bộ , công chức , viên chức các cấp ngang tầm với yêu cầu , nhiệm vụ . Điều đó có ý nghĩa quyết định đối với việc thành công của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế . Trước những cơ hội lớn và những thách thức không nhỏ , với quyết sách đúng đắn của Đại hội , nhất định chúng ta sẽ thành công .

381

CÁC BIỆN PHÁP CƠ BẢN ĐỂ THÚC ĐẨY MẠNH MẼ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH ( Tham luận của đồng chí Đỗ Quang Trung , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh )

Các văn kiện trình Đại hội X của Đảng, Báo cáo chính trị , Báo cáo về phương hướng , nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010) , Báo cáo công tác xây dựng Đảng đều khẳng định một chủ trương quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước , đó là tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ , trong sạch , vững mạnh , hiện đại , có hiệu lực và hiệu quả cao . Trong nhiệm kỳ Đại hội IX , Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2010 , trên cơ sở đó các chương trình , kế hoạch cải cách hành chính của hầu hết các bộ , ngành Trung ương và chính quyền địa phương các cấp đã được xây dựng và thực hiện . Sau 5 năm , chúng ta đã làm được khá nhiều việc , góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới , đặc biệt là xây dựng khung pháp lý cho sự vận hành của nền kinh tế thị trường , thúc đẩy tăng trưởng kinh tế , ổn định xã hội , chủ động hội nhập kinh tế quốc tế . Cải cách hành chính đã góp phần mở rộng dân chủ hoá đời sống xã hội , thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở , tăng cường tính công khai , minh bạch trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước

382

thông qua một loạt biện pháp như "một cửa" , công khai thủ tục hành chính , doanh nghiệp tự tính , tự khai , tự nộp thuế , thông quan điện tử , kiểm tra sau thông quan , v.v .. Tuy vậy , những kết quả đã đạt chưa đáp ứng được yêu cầu . Cải cách hành chính còn chậm , hiệu quả thấp . Hệ thống thể chế hành chính còn nhiều bất cập , chưa theo kịp đòi hỏi của nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ; chưa hình thành được môi trường pháp lý đồng bộ tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội . Bộ máy hành chính cồng kềnh , tính chuyên nghiệp thấp , dấu ấn của cơ chế bao cấp , đặc biệt là cơ chế " xin cho" còn khá nặng nề . Thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn gây trở ngại cho dân và hoạt động sản xuất , kinh doanh của doanh nghiệp . Đội ngũ cán bộ , công chức còn yếu kém về trình độ nghiệp vụ và về phẩm chất . Tệ tham nhũng, lãng phí , quan liêu , cửa quyền , vô trách nhiệm là rất nghiêm trọng . Những yếu kém và tiêu cực ấy đã làm giảm lòng tin của dân đối với cơ quan hành chính nhà nước . Nhìn tổng thể, nền hành chính của chúng ta đang tụt hậu và có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới . Tình trạng như vậy là do mấy nguyên nhân chủ yếu . Một là , chưa có đầy đủ nhận thức và quyết tâm cải cách hành chính một cách thật sự và kiên quyết . Hai là , cải cách hành chính chưa được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị , với cải cách kinh tế , cải cách tư pháp , cải cách lập pháp . Ba là , cấp uỷ đảng và những người đứng đầu các cấp chính quyền chưa làm hết trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức thực hiện cải cách hành chính từ Trung ương tới cơ sở . Cuộc sống đang đặt ra một câu hỏi rất quan trọng và cơ bản , đó là làm thế nào để bộ máy hành chính phục vụ dân tốt hơn , làm thế nào để cán bộ , công chức tận tâm với công việc , đúng như lời dạy của Bác Hồ : " Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng

383

đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân” .

Từ các bài học kinh nghiệm thời gian qua , sau đây xin nêu ra một số biện pháp cơ bản nhằm thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính trong thời gian tới .

1. Tạo lập cho được sự nhất quán, đồng bộ giữa thể chế của cả hệ thống chính trị với thể chế nhà nước , trong đó có thể chế hành chính

Hội nghị Trung ương lần thứ bảy khoá VIII đã xác định phải nhận thức rõ và đúng đặc trưng hệ thống chính trị nước ta là một đảng duy nhất cầm quyền . Đặc trưng này chi phối có tính quyết định việc xây dựng, vận hành cũng như cải cách các bộ phận của cả hệ thống chính trị. Muốn làm rõ chức năng của bộ máy hành chính , của người đứng đầu cơ quan hành chính , cần phải có những cải cách phù hợp của tổ chức đảng , đoàn thể chính trị - xã hội . Tổ chức đảng làm đúng vai trò lãnh đạo sẽ tạo điều kiện để cơ quan hành chính phát huy hết trách nhiệm trong quản lý nhà nước , cả về công việc cũng như về nhân sự . Cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị , trong đó rất quan trọng là đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước . Đây là điều hết sức quan trọng cần lưu tâm trong quá trình đổi mới . Phải có sự chuyển biến thật sự trong nhận thức của cấp uỷ đảng, người đứng đầu cơ quan hành chính về đẩy mạnh cải cách hành chính , thông qua đó tạo điều kiện cho người dân , doanh nghiệp làm ăn , góp phần phát triển kinh tế - xã hội .

2. Tiếp tục làm rõ và điều chỉnh chức năng của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước

Qua cải cách , chức năng của Chính phủ , các bộ , chính quyền địa phương các cấp đã từng bước rõ hơn , đã có những kết quả

384

tích cực trong phân cấp của Trung ương cho địa phương . Nhưng như thế chưa đủ . Mỗi khi có sự cố trong bộ máy , chúng ta lại giật mình nghĩ về tổ chức và chức năng, vai trò và trách nhiệm của cơ quan hành chính . Các vụ án tham nhũng đã và đang xử lý tại Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , Bộ Thương mại , Bộ Giao thông vận tải cho thấy sự không rõ ràng về trách nhiệm của Bộ đối với doanh nghiệp nhà nước trực thuộc , sự dai dẳng của cơ chế xin - cho , sự lẫn lộn , chồng chéo trong chức năng quản lý của Bộ đối với các dự án , sự buông lỏng kiểm tra , thanh tra của Bộ , v.v .. Tất nhiên , không thể ngay một lúc xác định đúng và rõ chức năng quản lý nhà nước của các bộ trong cơ chế kinh tế thị trường . Nhưng không thể để quá lâu không có được những câu trả lời đúng . Để giải quyết vấn đề này , không có cách nào khác là kiên trì thực hiện chủ trương mà Đảng ta đã khẳng định là Chính phủ , các Bộ tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước ở tầm vĩ mô : hoạch định chính sách , thể chế, quy hoạch , kế hoạch , và thanh tra , kiểm tra việc thực hiện , từng bước phân biệt rõ quản lý hành chính với hoạt động doanh nghiệp , hành chính với sự nghiệp và thực hiện phân cấp đích đáng giữa các cấp hành chính . Mong mỏi của khá nhiều Bộ trưởng , Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh chính là được quy định thật cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm , ví dụ như Bộ , tỉnh có mấy việc phải giải quyết đối với doanh nghiệp nhà nước trực thuộc , mấy việc với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc . Ngoài các việc đó , bất kỳ việc gì khác mà cấp dưới trình lên là không thuộc phạm vi giải quyết . Như vậy sẽ rõ được trách nhiệm , ai đúng , ai sai , sai đến đâu trong thực hiện từng nhiệm vụ được giao . Điều này có thể làm được không? Chắc là phải làm được . Và chúng ta phải thay đổi cả cách làm . Lâu nay khi bàn về chức năng , nhiệm vụ của Bộ , thông thường

385

chỉ là các cơ quan hành chính ngồi bàn với nhau . Các doanh nghiệp nhà nước , các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công , các doanh nghiệp tư nhân , các tổ chức xã hội không được tham gia . Hãy để một doanh nghiệp nhà nước ,

một trường đại học ,

một viện

nghiên cứu khoa học , một doanh nghiệp tư nhân liệt kê ra bao nhiêu việc phải trình lên để Bộ quyết , cho ý kiến đồng ý , phê duyệt , v.v .. Chắc chắn là danh mục liệt kê sẽ buộc chúng ta phải suy nghĩ . Xin đề nghị sau Đại hội X tiến hành tiếp một đợt tổng rà soát và điều chỉnh chức năng , nhiệm vụ , thẩm quyền của các cơ quan hành chính nhà nước với sự tham gia rộng rãi của các tổ chức , cá nhân trong xã hội .

3. Làm rõ chức trách, phận sự của từng cán bộ, công chức trong bộ máy, đặc biệt làm rõ trách nhiệm người đứng đầu Mỗi cán bộ , công chức phải được quy định bằng văn bản phận sự và trách nhiệm , định rõ làm những công việc gì , sản phẩm là gì , số lượng và chất lượng ra sao , thời gian hoàn thành , phải báo cáo với ai và trách nhiệm đến đâu nếu không hoàn thành nhiệm vụ . Trên cơ sở đó xây dựng lại tiêu chuẩn cán bộ , công chức , tiến hành xác định cơ cấu cán bộ , công chức , quy định chuẩn chế độ công vụ , trách nhiệm và đạo đức công vụ , thực hiện việc đào tạo , bồi dưỡng cán bộ công chức một cách thực chất hơn , đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá và hội nhập . Phải tăng cường kỷ luật , kỷ cương hành chính và trách nhiệm của người đứng đầu . Thủ trưởng các cơ quan , đơn vị phải ban hành cụ thể và chính xác những quy định phận sự như vậy cho từng cán bộ, công chức , viên chức . Mở rộng việc áp dụng các phương pháp khoa học (như ISO) vào việc đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của từng cá nhân , từng đơn vị . Đây là cơ sở để đánh giá kết quả công tác của cán bộ , công chức hàng năm , khắc phục việc đánh giá , bình bầu cán bộ,

386

công chức một cách chung chung, kết luận rằng số đông hoàn thành tốt công việc , trong khi cơ quan còn nợ nhiều công việc trước cấp trên , dân và doanh nghiệp phàn nàn , không bằng lòng thái độ và trách nhiệm giải quyết công việc của cơ quan hành chính .

4. Cải cách thực sự tiền lương để cán bộ, công chức sống được bằng lương , nuôi được gia đình Tất cả chúng ta , cả xã hội đều biết rõ lương cán bộ , công chức hiện tại cho dù đã được điều chỉnh nhiều lần , nhưng thực sự vẫn chưa đủ mức cần thiết , cho đến nay không ai sống được bằng lương, nhưng thực tế thì cán bộ, công chức vẫn sống được . Chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào vấn đề này để có giải pháp đúng . Động cơ của cán bộ , công chức cùng với lý tưởng , phục vụ dân và xã hội mà chúng ta phải thường xuyên giáo dục , thì phải có tiền lương thoả đáng đủ chu cấp cho cuộc sống gia đình .

Nền hành chính cần một cuộc đại phẫu , giữ lại những người đủ phẩm chất và năng lực , đưa ra khỏi bộ máy những người không đáp ứng yêu cầu . Giảm biên chế chắc chắn sẽ gây ra nhiều đau đớn , nhưng nếu chúng ta không dám chấp nhận một lần đau thật sự thì rất khó có thể đi tiếp . Đương nhiên , phải có chính sách thoả đáng cho những người dôi ra qua giảm biên chế . Điều quan trọng là những người giữ lại và bổ sung vào bộ máy là những người đủ phẩm chất và năng lực phải được hưởng lương xứng đáng với công việc , để có thể an tâm , toàn tâm , toàn ý cho thực thi công vụ . Không giải quyết vấn đề lương sẽ thiếu đi một điều kiện quan trọng để phòng, chống tham nhũng có hiệu quả .

5. Thực hiện thường xuyên công tác kiểm tra, thanh tra công vụ trong các cơ quan hành chính các cấp Công tác giám sát của Quốc hội , Hội đồng nhân dân các cấp , của Mặt trận và các đoàn thể cũng như của người dân và báo chí

387

đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã phát hiện khá nhiều vụ , việc tiêu cực trong bộ máy , trong đội ngũ cán bộ , công chức . Đồng thời cần coi trọng và làm tốt công tác kiểm tra , thanh tra công vụ trong từng cơ quan hành chính . Đây là một trong những nhiệm vụ chính của người quản lý mà lại là khâu rất yếu trong công tác quản lý thời gian qua . Đích thân thủ trưởng cơ quan hành chính phải kiểm tra , thanh tra bộ máy của mình thực hiện nhiệm vụ công tác được giao . Từng bộ , ngành và chính quyền địa phương các cấp phải chủ động xây dựng và triển khai kế hoạch kiểm tra , thanh tra , khắc phục tình trạng nể nang, né tránh , không dám đấu tranh , phê bình và tự phê bình , khắc phục tình trạng phần lớn các vụ việc tiêu cực , tham nhũng là do bên ngoài phát hiện , chứ không phải do bản thân các cơ quan hành chính phát hiện .

6. Tăng cường công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính

Để cải cách hành chính đạt được hiệu quả , điều then chốt là đổi mới sự chỉ đạo công tác cải cách hành chính ở các cấp . Chỉ đạo sát sao , ráo riết trong toàn hệ thống quản lý hành chính nhà nước để thúc đẩy được và kiểm soát được mức độ hoàn thành mục tiêu cải cách của từng ngành , từng địa phương. Người đứng đầu các bộ , ngành Trung ương và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh chịu trách nhiệm về tình hình và kết quả triển khai cải cách hành chính trong phạm vi mình phụ trách . Chúng ta tin tưởng rằng , với ý thức trách nhiệm và quyết tâm cao , với tinh thần đổi mới mạnh mẽ , nhất định chúng ta sẽ đưa công cuộc cải cách hành chính lên một tầm cao mới , góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng .

388

TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ HỮU CƠ GIỮA ĐẢNG , NHÀ NƯỚC , MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN , TẠO CƠ SỞ ĐỂ THỰC HIỆN TỐT QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN ( Tham luận của đồng chí Vũ Trọng Kim , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Phó Trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan dân vận Trung ương )

Thấu suốt quan điểm : Dân là quý nhất , là quan trọng hơn hết , là "tối thượng " , Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã chỉ rõ : " Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân . Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân " , "Dân là chủ , mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân " . " Nước lấy dân làm gốc Gốc có vững cây mới bền Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân " . Đảng ta luôn nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò to lớn của nhân dân trong lịch sử . Đảng và Bác Hồ đặt niềm tin trọn vẹn vào nhân dân "lấy sức ta mà giải phóng cho ta " . Có dân tộc anh hùng, có Đảng quang vinh mới có Cách mạng Tháng Tám thành công , lần lượt đánh thắng các đế quốc xâm lược và ngày nay vững bước

389

trên con đường đổi mới vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ , văn minh . Dân làm chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong sự nghiệp đổi mới ngày nay . Nhưng muốn phát huy được quyền làm chủ của nhân dân thì phải có sự lãnh đạo của Đảng . Đó là tất yếu khách quan , đó là ý chí và nguyện vọng của nhân dân , mong muốn Đảng ta luôn làm tròn vai trò là "Người cầm lái , người dẫn đường" , bởi vì nhân dân hiểu rõ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân , của nhân dân lao động và của dân tộc . Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình , Đảng phải không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền , xác lập và tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng , Nhà nước , Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để tạo cơ sở thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân . Trước hết , nói về sự lãnh đạo , Đảng ta phải nâng tầm vai trò chính trị , ưu thế chính trị trong mọi mặt của đời sống xã hội . chứng tỏ phẩm chất , năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền trong điều kiện mới . Ngày nay , sự phát triển và thay đổi của thời đại không ngừng tăng thêm nội dung và yêu cầu mới đối với một chính đảng . Bởi vậy , Đảng phải thật sự trong sạch , thật sự vững mạnh , và luôn luôn tìm thấy sức sống mới trong việc kiên trì và kiện toàn chế độ tập trung dân chủ . Đó là điều hoàn toàn đúng đắn . Chế độ tập trung dân chủ của Đảng là sự kết hợp hữu cơ của dân chủ và sự tập trung trong Đảng . Dân chủ là cơ sở khách quan của sự tập trung, tập trung là yêu cầu tất yếu của dân chủ . Cho dù hoàn cảnh nào , dân chủ tách rời tập trung hay tập trung tách rời dân chủ thì chế độ tập trung dân chủ ấy đều gặp phải khó khăn , lệch lạc .

390

Về sự lãnh đạo của Đảng ta hiện nay - nằm trong đặc thù hệ thống thể chế của hệ thống chính trị một đảng - điều kiện cần là cái gì ? Phải chăng, đã đến lúc phải có một hệ thống thể chế chung cho cả hệ thống chính trị để điều chỉnh và định hướng hoạt động theo yêu cầu và mục tiêu chung . Điều đáng quý là , chúng ta đã có cơ chế " Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ " . Trên cơ sở đó chúng tôi đề xuất cần có một đạo luật về hệ thống chính trị. Trong hệ thống chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau , Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo , chỉ đạo sự phối hợp hài hoà và nhịp nhàng giữa các tổ chức . Sự quan hệ hữu cơ đó thể hiện bằng đường lối , chính sách , bằng việc xây dựng bộ máy , đảm bảo quy chế làm việc và cơ chế vận hành thông suốt và hiệu quả . Trong thời kỳ đổi mới , ngay từ Đại hội VI Đảng đã vạch ra lộ trình đổi mới , trước hết là đổi mới tư duy , từ đổi mới tư duy đến đổi mới kinh tế , trên cơ sở đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới chính trị , đổi mới các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội , và Đảng chủ trương đổi mới hệ thống chính trị trước hết phải đổi mới bộ máy Nhà nước . Khâu mấu chốt cần tập trung , chính là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở cấp Trung ương và chính quyền ở cấp địa phương . Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối , quan điểm , các nghị quyết , quyết định , nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh ; lãnh đạo thể chế hoá , cụ thể hoá đường lối , quan điểm , chủ trương , chính sách lớn của Đảng thành Hiến pháp , pháp luật , kế hoạch , các chương trình công tác lớn của Nhà nước ; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch , vững mạnh , hoạt động có hiệu lực , hiệu quả ; bố trí đúng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ . Trên thực tế , nhờ vào chủ trương đúng đắn đó , bộ máy Nhà nước đã có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu tổ chức , cơ chế hoạt động , đội ngũ nhân sự và hệ thống thể chế . Chính sự đổi mới này làm cho Nhà nước mạnh lên , trở thành nhân tố quan trọng làm nên

391

những thành tựu đổi mới trong 20 năm qua . Bên cạnh đó , cũng trong quá trình đổi mới , bộ máy Nhà nước , kể cả hệ thống chính trị cũng bộc lộ không ít những tồn tại, yếu kém . Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã từng chỉ ra 5 căn bệnh của bộ máy hệ thống chính trị ( cồng kềnh ; biên chế tiếp tục tăng ; chức năng, nhiệm vụ chồng chéo ; phân công, phân cấp , phân quyền không hợp lý ; tính trách nhiệm trước dân , trong công việc vừa không rõ ràng, vừa không nghiêm ; tình trạng quan liêu , tham nhũng, lãng phí không giảm ). Đồng thời , Ban Chấp hành Trung ương cũng chỉ rõ những nguyên nhân , trong đó đáng chú ý là hai nguyên nhân sau : 1 ) Việc đổi mới , sắp xếp lại không dựa trên cơ sở của khoa học tổ chức , khoa học quản lý , khoa học pháp lý ; 2) Chậm nghiên cứu tổ chức bộ máy phù hợp với điều kiện một đảng cầm quyền . Điều cần lưu ý đối với bộ máy của hệ thống chính trị , trực tiếp là bộ máy Nhà nước - bộ máy thực thi quyền lực - đang có tình trạng bị chính quyền lực tha hoá một số cán bộ, gây ra bệnh quan liêu , tham nhũng, tình trạng vô trách nhiệm , hống hách , cửa quyền với nhân dân . Đó không phải là bản chất , song quyết tâm của Đảng là kiên quyết đấu tranh , chỉnh đốn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) . Để khắc phục tồn tại , hạn chế , khuyết điểm nói trên , cũng là khuyết điểm của cơ chế quan hệ phối hợp , chúng tôi đề nghị sớm xây dựng và thực hiện các quy chế về sự phối hợp . Ví dụ , cần làm tốt quy chế phối hợp giữa kiểm tra Đảng với thanh tra Chính phủ để kịp thời phát hiện các vụ việc vi phạm , xử lý đúng người, đúng tội , đúng Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước ; xây dựng quy chế công tác phối hợp giữa các Ban tham mưu của cấp uỷ đảng và cơ quan nhà nước tương ứng cùng cấp , nhất là Văn phòng Trung ương Đảng , Văn phòng Quốc hội , Văn phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước , giữa Văn phòng cấp uỷ và Văn phòng Hội đồng nhân dân , Uỷ ban nhân dân các cấp ... Đảng bộ Khối cơ quan

392

Dân vận có trách nhiệm phối hợp công tác với các ban Đảng, Đảng đoàn cơ quan Mặt trận , các đoàn thể, hội quần chúng nhằm phát huy vai trò đảng viên tiền phong, gương mẫu trong công tác vận động quần chúng, biến các chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước thành hiện thực sinh động, thành hành động tự giác của hàng triệu quần chúng . Là những cán bộ , đảng viên làm công tác vận động quần chúng, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào tấm lòng thuỷ chung son sắt của đồng bào chúng ta đối với Đảng . Sự thật , mỗi khi gặp khó khăn thử thách đồng bào ta lại nêu cao khí phách anh hùng , tinh thần cách mạng cao cả . Hơn ai hết , đồng bào luôn tâm niệm : nhân hoà cao hơn địa lợi , địa lợi cao hơn thiên thời . Dân là chủ . Từng giờ , từng ngày chúng ta phải quán triệt sâu sắc hơn tinh thần và biện pháp phát huy quyền dân chủ của nhân dân . Để phát huy quyền dân chủ về kinh tế - xã hội , Chính phủ cần tác động mạnh mẽ hơn vào quá trình xây dựng quy hoạch , kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội , xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu , tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia phát triển kinh tế làm giàu cho bản thân , gia đình và xã hội . Các công việc xã hội do Chính phủ quản lý phải nhằm bảo đảm quyền lợi của công dân như giữ gìn trật tự xã hội , điều hoà lợi ích xã hội , thực thi chính sách xã hội , quản lý các tổ chức xã hội , xây dựng hệ thống an sinh xã hội , giải quyết tình trạng cấp bách xã hội , mà hạt nhân của công tác quản lý xã hội của Chính phủ là chính sách xã hội . Chính sách xã hội là một trong những biện pháp cơ bản để Chính phủ can thiệp vào xã hội và quyết định các chính sách quản lý xã hội của Chính phủ . Cốt lõi của chính sách xã hội là cung cấp phúc lợi có kết quả trực tiếp cho công dân , chăm lo người nghèo , vùng đồng bào dân tộc thiểu số , miền núi . Cụ thể là các chính sách : bảo hiểm xã hội , cứu trợ công cộng , dịch vụ sức khoẻ và phúc lợi , nhà ở, nước sạch , môi trường , v.v .. Mặt khác , cần phát huy vai trò quản lý xã hội của cộng đồng dân cư theo tinh thần vận dụng và nâng cấp

393

Nghị định về Quy chế dân chủ ở cơ sở , đề cao vai trò tự quản lý của nhân dân . Trong cơ chế phối hợp , phải đề cao chủ thể Quốc hội . Quyền lực cao nhất của Quốc hội do nhân dân trao cho ; do đó trong mối quan hệ với Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác, Quốc hội phải có trách nhiệm cao nhất trước nhân dân , và hơn nữa , phải liên đới chịu trách nhiệm trước nhân dân về hoạt động của các cơ quan nhà nước khác mà Quốc hội phê chuẩn hoặc thành lập . Quyền lực tối thượng thuộc về nhân dân

phải

được thực hiện bằng những

phương thức hiệu quả hơn , ngoài việc cải tiến hoàn thiện chế độ dân chủ đại diện , cần phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân (như thăm dò dư luận , trưng cầu ý dân ... ) . Trong mối quan hệ đó , Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò to lớn trong việc tập hợp lực lượng và phát huy sức mạnh sáng tạo của nhân dân . Thông qua tổ chức của mình, nhân dân thực hiện quyền giám sát và phản biện xã hội đối với các vấn đề nêu ra , theo quy định của pháp luật . Bởi vậy, Đảng cần đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là giúp Mặt trận và các đoàn thể nhân dân xác định đúng mục tiêu , phương hướng phát triển và nội dung hoạt động trong từng thời kỳ ; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn thể trong xây dựng , đổi mới tổ chức và hoạt động của mình . Theo đó , đoàn thể tập hợp đoàn viên , hội viên sinh hoạt tự nguyện , tự chịu trách nhiệm nhằm nâng cao dân trí mở rộng không gian giao lưu sinh hoạt bổ ích , hoà quyện nhau trong không khí đồng thuận . Đó chính là văn hoá đặc trưng của dân tộc Việt Nam cần nâng niu , gìn giữ và phát huy .

Mối quan hệ hữu cơ trong hệ thống chính trị được thể hiện bởi các bộ phận cấu thành , có khả năng phối hợp để tạo ra sức mạnh . Một tổ chức mạnh là tổ chức luôn thích ứng với mọi thử thách , phức tạp của xã hội . Sự lỗi thời của tổ chức luôn là lực cản sự tiến

394

hoá xã hội , ngược lại , tổ chức thúc đẩy xã hội phát triển đi lên , đó chính là lý do tồn tại của tổ chức . Vì vậy , khi củng cố , xây dựng tổ chức phải tính đến đầy đủ các mối quan hệ , quan hệ giữa tổ chức và các cá nhân thành viên , quan hệ giữa tổ chức với xã hội , với sự vận động và phát triển xã hội . Tất cả những mối quan hệ đó phải được đặt trong khuôn khổ, chức năng , nhiệm vụ , quyền hạn của tổ chức , trong những mục tiêu chung của các tổ chức và phải được cố định trong những khuôn khổ của các thể chế pháp lý . Đảm bảo không một tổ chức nào vượt quá giới hạn thẩm quyền , không một tổ chức nào hoạt động mà không bị giám sát . Giám sát chức năng hoạt động của tổ chức và giám sát hành vi thực thi nhiệm vụ của cán bộ , công chức luôn gắn kết với nhau . Từng cá nhân cán bộ , công chức phải đề cao trách nhiệm được ràng buộc bởi pháp luật , nhất là trách nhiệm người đứng đầu phải rõ ràng , dứt khoát . Gần đây có nhiều vụ tham nhũng , tiêu cực bị phanh phui - nóng

hổi

là vụ PMU 18 - cho thấy cơ chế quản lý , thanh tra , giám sát thiếu chặt chẽ . Kẽ hở để bọn tham nhũng chui lọt chính là những quan chức có thế lực và những kẻ tha hoá , biến chất . Chúng ta lên án và góp phần giải quyết , lập lại trật tự để khôi phục lòng tin của nhân dân . Thước đo hiệu quả của hệ thống chính trị trong mối quan hệ hữu cơ như đã trình bày , phải bằng trách nhiệm thực hiện chức năng của từng tổ chức và của cả hệ thống ; bằng chính thực tiễn quản lý , bằng chính thực trạng kinh tế - xã hội , bằng sự đánh giá của xã hội , không thể kéo dài tình trạng tự đánh giá , tự kiểm điểm , phê bình bằng các báo cáo tổng kết thành tích chung chung, hình thức . Cái cốt lõi là làm cho thể chế có năng lực nội sinh cao nhất , tức là phải cho nó một thể chế tốt nhất , một nguồn nhân lực vận hành thể chế tối ưu , làm cho tổ chức có khả năng tích tụ được năng lực hoạt động mới trong quá trình hoạt động , để thích ứng được với mọi biến đổi của môi trường xung quanh .

395

Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó Đảng giữ vai trò lãnh đạo , chỉ đạo . Việc nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị phụ thuộc vào việc thể chế hoá , cụ thể hoá đường lối chính trị của Đảng trên mọi phương diện : chính trị , kinh tế , văn hoá , xã hội và gia đình . Với cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội , với Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X thông qua , nhất định nhân dân ta sẽ giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa trong công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển , xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta .

396

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI ( Tham luận của đồng chí Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

Năm năm qua , trong hoàn cảnh có nhiều thuận lợi , nhưng cũng không ít khó khăn , thách thức , nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng , Bộ Chính trị , nhân dân ta phát huy cao độ tinh thần tự lực , tự cường , phát huy nội lực , tranh thủ tối đa sự hợp tác quốc tế và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng : tình hình đất nước ổn định , nền kinh tế tăng trưởng toàn diện với tốc độ khá nhanh , năm sau cao hơn năm trước ; tiềm lực kinh tế tăng lên ; chính sách phát triển các thành phần kinh tế ngày càng phù hợp với thực tiễn đất nước , tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế , nhất là kinh tế tư nhân có bước phát triển mạnh . Kinh tế nước ta đã từng bước chủ động hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới ; các lĩnh vực giáo dục , y tế, khoa học công nghệ , v.v. đều có tiến bộ , trình độ dân trí tiếp tục được nâng cao ; đời sống vật chất và tinh thần của tuyệt đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt ; an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội được giữ vững ; quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng ; uy tín và vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới không ngừng được nâng cao .

397

Những kết quả nêu trên thể hiện thành tựu to lớn , có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới , làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước . Vui mừng trước những thành tựu đã đạt được , song nhân dân ta cũng rất trăn trở trước tình hình đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới cần được giải quyết. Đó là : tốc độ phát triển kinh tế chưa tương xứng với mức đầu tư và tiềm năng của đất nước . Chất lượng tăng trưởng , hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp . Hiệu lực quản lý nhà nước của nhiều bộ , ngành , địa phương còn rất hạn chế ; chất lượng giáo dục , đào tạo và chăm sóc sức khoẻ nhân dân vẫn đang là nỗi bức xúc của toàn xã hội ; đời sống văn hoá , đạo đức xã hội có mặt bị xuống cấp ; tai nạn giao thông , tệ nạn xã hội vẫn chưa giảm . Sự phân hoá giàu nghèo vẫn tiếp tục gia tăng ; việc làm , dân chủ và công bằng xã hội vẫn là yêu cầu phải được giải quyết tích cực . Một bộ phận cán bộ , đảng viên và nhân dân vẫn còn thiếu cảnh giác trước âm mưu " diễn biến hoà bình " và các thủ đoạn mua chuộc , chống phá , chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch . Đời sống của phần lớn đồng bào dân tộc thiểu số , nhất là vùng sâu , vùng xa vẫn còn nghèo . Nhân dân băn khoăn trước cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng và chương trình cải cách hành chính đề ra từ lâu nhưng thực hiện vẫn chưa có kết quả rõ rệt , chưa tạo được lòng tin của nhân dân , nhất là các đồng chí cán bộ lão thành đã nghỉ hưu . Nhân dân rất bất bình trước tệ nạn tham nhũng , lãng phí , quan liêu , chưa được ngăn chặn , mà gần đây nhất là vụ PMU 18 ở Bộ Giao thông vận tải vừa bị phanh phui , đang là vấn đề thời sự nóng bỏng trong nhân dân . Rõ ràng là tình trạng sống thực dụng , chạy chức , chạy quyền , chạy tội và phạm tội trong một bộ phận cán bộ , đảng viên tuy đã bị xã hội lên án khá mạnh mẽ nhưng vẫn có chiều hướng tăng lên , ngày càng tinh vi hơn , phức tạp hơn . Sự phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng ; đời sống ,

398

việc làm , dân chủ và công bằng xã hội đang là yêu cầu bức thiết cần được giải quyết . Mặt khác , một bộ phận cán bộ , đảng viên và nhân dân còn thiếu cảnh giác trước "mặt trái"

của cơ chế thị

trường ; trước âm mưu và thủ đoạn mua chuộc , chia rẽ , phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch . Tình hình đó làm cho nhân dân lo lắng, phân tâm . Lòng tin của một bộ phận nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng , sự quản lý của Nhà nước bị ảnh hưởng và giảm sút . Để xảy ra những khuyết điểm , yếu kém và tồn tại nêu trên là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị , trước hết là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước .

Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật và ý thức trách nhiệm cao trước nhân dân , Đại hội VI Mặt trận Tổ quốc Việt Nam họp tháng 9 - 2004 đã nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm của mình và đề ra những giải pháp cụ thể nhằm góp phần cùng Đảng và Nhà nước khắc phục những khuyết điểm thiếu sót nói trên . Nhằm phát huy những thành tựu đã giành được qua 20 năm đổi mới , khắc phục những yếu kém , tồn tại hiện nay , tiếp tục đưa cách mạng Việt Nam tiến lên , Báo cáo chính trị Đại hội đã chọn tiêu đề rất chính xác : " Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, đó là nguyện vọng thiết tha của toàn Đảng, toàn dân . Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhất trí cao với chủ đề và nội dung Báo cáo chính trị trình Đại hội . Đề ra chủ trương, phương hướng chiến lược cho giai đoạn cách mạng mới đã khó , song đưa được chủ trương, phương hướng chiến lược đó thành hiện thực cuộc sống còn khó hơn nhiều . Là người làm công tác Dân vận - Mặt trận , chúng tôi đề nghị : 1. Toàn thể cán bộ , đảng viên từ Trung ương đến cơ sở cần quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc lời căn dặn của Chủ tịch

399

Hồ Chí Minh tại Đại hội II của Đảng (1951) : " Nhiệm vụ chủ yếu

་ của Đảng ta , xét cho cùng, có thể tóm tắt trong 8 chữ: " Đoàn kết toàn dân , phụng sự Tổ quốc" " . Cần làm cho các cấp uỷ đảng, mọi cán bộ , đảng viên nhận thức sâu sắc sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc , mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong thời điểm hiện nay là vấn đề sống còn của Đảng, sự tồn vong của chế độ . Bằng những chủ trương , chính sách và những việc làm cụ thể của từng cán bộ, đảng viên trong việc thực thi chủ trương, chính sách đó , làm cho sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trở thành động lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước . Muốn đoàn kết được toàn dân , trước hết phải củng cố sự đoàn kết , thống nhất và vững mạnh trong toàn Đảng, trong từng tổ chức Đảng ; phấn đấu để từng đảng viên , từng tổ chức đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc . Để làm được việc đó , tôi đề nghị: Đảng ta phải kiên trì thực hiện và thực hiện tốt hơn , quyết liệt hơn , có hiệu quả hơn cuộc vận động xây dựng , chỉnh đốn Đảng để tổ chức đảng ở tất cả các cấp thực sự trong sạch và vững mạnh . Phải thực hiện đến nơi , đến chốn những chính sách đã ban hành về đại đoàn kết toàn dân tộc , về dân tộc , về tôn giáo , về người Việt Nam ở nước ngoài , về trọng dụng người tài ... 2. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc nhở chúng ta : "Muốn đoàn kết thực sự phải có dân chủ thực sự " . Thực tiễn của 20 năm đổi mới càng khẳng định chân lý đó . Tổng kết việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở những năm qua cho thấy : ở đâu có dân chủ , ở đó có đoàn kết . Ở đâu thiếu dân chủ , ở đó mất đoàn kết . Vì vậy , tôi đề nghị : cần thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng vì với cơ chế hiện nay , chỉ khi dân chủ trong Đảng được thực hiện tốt thì mới có dân chủ thực sự trong dân . Cần kết hợp thực hiện nguyên tắc tập trung,

400

dân chủ trong Đảng và nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức Mặt trận , thực chất là thể hiện đúng đắn tính chất của Đảng vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận , để làm phong phú thêm nền dân chủ ở nước ta . Đây cũng là một biện pháp quan trọng nhằm đảm bảo nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng , không ngừng đổi mới hệ thống chính trị , xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa , bảo đảm mọi quyền lực thực sự thuộc về nhân dân . Muốn dân chủ được thực thi , dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải có sự giám sát chặt chẽ các hoạt động của cơ quan nhà nước , của đại biểu dân cử , do Mặt trận Tổ quốc và đặc biệt là do mọi người dân tiến hành . Đề nghị cần sớm có cơ chế để xác lập mối quan hệ có tính nguyên tắc giữa Đảng , Nhà nước và Mặt trận cùng các đoàn thể nhân dân , làm cho tất cả các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị đều phát huy cao vai trò và ngày càng vững mạnh , quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn , từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới . Trước mắt , các cấp uỷ đảng cần lãnh đạo và có cơ chế để Mặt trận thực hiện có hiệu quả các hoạt động thanh tra nhân dân , giám sát nhân dân và phản biện xã hội . 3. Đại hội IX của Đảng ta đã đề ra đường lối và Chiến lược phát triển kinh

tế - xã hội 10 năm ( 2001 - 2010) nhằm đưa nước ta ra

khỏi tình trạng kém phát triển , nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân , tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại . Để làm được , chúng ta đã và đang huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nội tại hiện có : con người , khoa học và công nghệ , kết cấu hạ tầng , v.v. , song có hai lực lượng quan trọng chưa phải đã được huy động và khai thác đầy đủ , đó là đảng viên chưa được

401

làm kinh tế tư nhân và hiền tài - nguyên khí quốc gia chưa thật sự được trọng dụng . Chúng tôi đề nghị mọi đảng viên không ở trong biên chế đương chức của Nhà nước đều được làm kinh tế tư nhân không hạn chế quy mô miễn là bản thân là người lao động và làm đúng pháp luật , đúng Điều lệ và quy định của Đảng ; mọi người tài dù ở trong Đảng hay ngoài Đảng , ở trong hay ngoài nước hết lòng với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì đều được trọng dụng . 4. Mục đích phát triển kinh tế của đất nước ta là vì con người, phục vụ con người , vì dân , phục vụ cho dân . Vì vậy , cần quan tâm hơn nữa , chỉ đạo sát sao hơn nữa để tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển ; tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với phát triển đúng hướng văn hoá và giáo dục , gắn phát triển kinh tế với giải quyết việc làm , xoá đói , giảm nghèo , chăm lo đời sống nhân dân . Phấn đấu để mọi người có công với nước được chăm lo tốt hơn , chu đáo hơn cả về vật chất lẫn tinh thần ; mọi thanh niên có việc làm , có điều kiện " lập thân , lập nghiệp" , để không còn tình trạng công nhân phải đình công vì thái độ đối xử tệ bạc của giới chủ ; để sự cách biệt giữa nông thôn và thành thị , giữa miền xuôi và miền ngược ngày càng giảm đi rõ rệt . 5. Đề nghị cuối cùng của chúng tôi là các cấp uỷ đảng cần thực sự coi trọng xây dựng cả hệ thống chính trị , bao gồm xây dựng Đảng , xây dựng Nhà nước , Mặt trận và các đoàn thể nhân dân , cần quan tâm hơn nữa đến việc chăm lo , đào tạo , bồi dưỡng , có chế độ đãi ngộ bình đẳng đối với đội ngũ cán bộ Mặt trận và các đoàn thể ; phân công những cán bộ đủ tiêu chuẩn sang làm công tác Mặt trận và các đoàn thể, thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ , phát hiện những cán bộ Dân vận - Mặt trận tốt để bồi dưỡng, đề bạt vào những cương vị lãnh đạo của Đảng và Nhà nước . Đã đến lúc Đảng ta cần nghiên cứu để sớm thể chế hoá sự lãnh

402

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam , để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện , tuyệt đối của Đảng ngày càng có hiệu lực trong thời kỳ mới . Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong quá trình dựng nước và giữ nước . Kế thừa và phát huy truyền thống đó , Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc , xem đó là đường lối chiến lược , là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Phát huy sức mạnh toàn dân tộc , một trong những nhiệm vụ chủ yếu mà Đại hội IX của Đảng đã đề ra , 5 năm qua , Đảng ta đã có nhiều cố gắng và đã thu được những kết quả đáng phấn khởi trong việc thực hiện đại đoàn kết các dân tộc , đoàn kết các tôn giáo , các giai cấp , tầng lớp , thành phần kinh tế, mọi giới , mọi lứa tuổi , mọi vùng của đất nước , người trong Đảng, người ngoài Đảng, người đương chức và người nghỉ hưu ; đoàn kết mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam , dù sống ở trong nước hay ở nước ngoài . Nhờ có sự đoàn kết rộng rãi và chân thành đó mà đất nước ta luôn luôn được ổn định về chính trị , xã hội , sự đồng thuận xã hội được củng cố và tăng cường . Đó là tiền đề hết sức quan trọng để chúng ta phát triển kinh tế, giữ vững độc lập , chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Trong thành tựu chung đó có sự đóng góp quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam . Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tin tưởng vào sự thành công của Đại hội , nguyện cố gắng vượt bậc để góp phần xứng đáng hơn nữa vào việc thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ quan trọng mà Đại hội đề ra là : " Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng , phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.

403

XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VỮNG MẠNH XỨNG ĐÁNG LÀ GIAI CẤP TIÊN PHONG , LỰC LƯỢNG ĐI ĐẦU TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HOÁ , HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC ( Tham luận của đồng chí Cù Thị Hậu , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

Hoà cùng khí thế thi đua sôi nổi của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân lập thành tích thiết thực chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng , những ngày qua , giai cấp công nhân , tổ chức Công đoàn Việt Nam trên mọi miền Tổ quốc ra sức thi đua sôi nổi , lập thành tích xuất sắc trong lao động, công tác , học tập để dâng lên Đại hội đại biểu lần thứ X của Đảng, thể hiện sự tin tưởng Đại hội Đảng đề ra những quyết sách đúng đắn và lãnh đạo sáng tạo thực hiện thắng lợi mục tiêu "dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh " theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo , giai cấp công nhân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng , đang có mặt trong tất cả các ngành , các thành phần kinh tế , là lực lượng quan trọng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Giai cấp công nhân Việt Nam đang lao động cần cù , sáng tạo làm ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hoá cho xã hội và xuất

404

khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao . Hiện nay , mặc dù giai cấp công nhân Việt Nam chỉ chiếm 13 % dân số , gần 23 % lực lượng lao động xã hội , song hàng năm đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm chiếm trên 49 % giá trị tổng sản phẩm , đóng góp 60 % ngân sách nhà nước . Trong suốt quá trình đổi mới , giai cấp công nhân Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng vào xây dựng hoàn thiện đường lối của Đảng , chủ trương , chính sách , pháp luật của Nhà nước và góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế - xã hội , giữ vững an ninh chính trị , trật tự an toàn xã hội . Công đoàn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã có nhiều hình thức đa dạng phong phú , đẩy mạnh tuyên truyền , vận động , thu hút ngày càng đông đảo công nhân , viên chức , lao động vào tổ chức của mình . Làm tốt vai trò " cầu nối"

giữa Đảng với quần chúng

công nhân , viên chức , lao động . Tích cực , chủ động và có trách nhiệm cao trong tham gia xây dựng Đảng , Nhà nước . Nỗ lực tham gia với Chính phủ , các bộ , ngành liên quan xây dựng, bổ sung, sửa đổi chính sách , pháp luật liên quan đến công nhân viên chức và người lao động . Tuyên truyền , phổ biến đường lối , chủ trương của Đảng, chính sách , pháp luật của Nhà nước , tổ chức các phong trào thi đua sôi nổi , rộng khắp trong công nhân , viên chức lao động, góp phần tạo nên những thành tựu của đất nước trong những năm đầu thế kỷ XXI . Những đóng góp của giai cấp công nhân , tổ chức công đoàn là minh chứng khẳng định vị trí , vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo . Mặc dù giai cấp công nhân nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng , song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , trong điều kiện khoa học , công nghệ ngày càng phát triển

nhanh , toàn cầu hoá

diễn ra như một xu thế khách quan , tình hình thế giới có những thay đổi hết sức nhanh chóng , âm mưu " diễn biến hoà bình " của

405

các thế lực thù địch đối với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp . Tác động mặt trái của kinh tế thị trường và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày , từng giờ tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, đến giai cấp công nhân nói riêng . Giai cấp công nhân Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn , tình trạng việc làm của công nhân , lao động không ổn định , thời gian làm việc kéo dài và cường độ làm việc rất cao , điều kiện làm việc ít được cải thiện , tai nạn lao động gia tăng . Hàng chục vạn công nhân lao động ở các khu công nghiệp , khu chế xuất phải thuê nhà ở , trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm bảo an toàn . Đặc biệt là tiền lương , thu nhập của người lao động chưa tương xứng với cường độ và thời gian lao động , thậm chí có nơi lương công nhân hàng tháng chỉ khoảng 400 nghìn đồng, không đủ nuôi sống bản thân mình nơi đất khách quê người , nên đời sống gặp vô vàn khó khăn , điều kiện sinh hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn . Công nhân lao động không có thời gian , điều kiện sinh hoạt, học tập để nâng cao nhận thức chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ . Do vậy , trình độ học vấn , chuyên môn nghề nghiệp của một bộ phận công nhân còn thấp , chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , ý thức tổ chức kỷ luật , tác phong công nghiệp , ý thức chính trị , hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế, có một bộ phận công nhân sống thiếu lý tưởng , niềm tin , sa vào các tệ nạn xã hội , dẫn đến tha hoá về phẩm chất và lối sống , phai nhạt phẩm chất của giai cấp công nhân , giảm lòng tin và sự gắn bó với Đảng và Công đoàn . Một bộ phận cán bộ , công chức tham nhũng, tiêu cực , vi phạm pháp luật, sự phân hoá giàu nghèo giữa công nhân lao động với những người có chức , có quyền trong doanh nghiệp ngày càng tăng . Một số địa phương, một số khu công nghiệp mới chú trọng việc mời gọi đầu tư và thu ngân sách , nhưng chưa chú ý đến việc chăm lo đời sống cho người lao động . Do vậy , đã xảy ra tranh

406

chấp lao động và đình công ồ ạt trong công nhân lao động thời gian qua . Thực trạng trên đã phản ánh sự bức xúc về quyền lợi và thiếu am hiểu pháp luật của công nhân lao động, sự hạn chế của tổ chức Công đoàn và sự quan tâm chưa thoả đáng đối với công nhân lao động . Tình hình trên có nhiều nguyên nhân , song chúng tôi cho rằng một trong những nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng, Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến xây dựng phát huy vai trò giai cấp công nhân . Một thực tế là Đảng luôn khẳng định mang bản chất giai cấp công nhân , nhưng trong bốn thập kỷ qua Ban Chấp hành Trung ương , Bộ Chính trị, Ban Bí thư chưa có nghị quyết riêng về giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam , mặc dù nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng nghị quyết về giai cấp công nhân , nhưng đến nay chủ trương đó vẫn chưa thực hiện được (trừ Nghị quyết Trung ương 7 (khoá V ) có gắn được một phần vào đường lối phát triển công nghiệp và công nghệ) . Công tác đào tạo , bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ những công nhân ưu tú , công tác phát triển Đảng trong công nhân lao động, nhất là trong công nhân lao động khu vực ngoài quốc doanh cũng chưa được quan tâm . Tỷ lệ công nhân được kết nạp Đảng trong tổng số đảng viên mới kết nạp bình quân hàng năm từ Đại hội VII của Đảng đến nay chỉ chiếm dưới 11 % , đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII thành phần công nhân chỉ chiếm 8,3% , đến Đại hội đại biểu lần thứ IX chỉ còn 6,42 % , số Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII chỉ có 10 % thành phần xuất thân từ công nhân , đến Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX tỷ lệ này chỉ còn 4,6% . Công tác xây dựng , phát triển tổ chức Đảng và các tổ chức quần chúng trong giai cấp công nhân cũng chưa thực sự được quan tâm , nên hiện nay ở khu vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài rất hiếm các cơ sở có tổ

407

chức đảng , tổ chức Đoàn Thanh niên . Đảng , Nhà nước đã có nhiều chính sách để tôn vinh doanh nhân , nhà giáo , thầy thuốc , nghệ sĩ và đề cao Việt kiều ... nhưng ít có những cuộc gặp gỡ công nhân , lại càng chưa có hình thức tôn vinh công nhân , những người thợ tiêu biểu . Đặc biệt , chúng ta chưa thực sự quan tâm đến xây dựng hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật đối với giai cấp công nhân , nên hệ thống cơ chế , chính sách đối với giai cấp công nhân chưa đồng bộ , có những chủ trương chính sách không còn hợp lý , như chính sách tiền lương, chính sách nhà ở , chính sách đào tạo , bồi dưỡng công nhân ... nhưng chậm được sửa đổi , bổ sung, tình trạng người sử dụng lao động vi phạm pháp luật lao động vẫn còn diễn ra phổ biến nhưng không được xử lý nghiêm . Bên cạnh những nguyên nhân trên , bản thân tổ chức Công đoàn cũng tự nhận thấy một phần trách nhiệm , thể hiện nội dung phương thức chậm đổi mới , chưa đáp ứng kịp với đòi hỏi của phong trào công nhân trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động có lúc , có nơi còn biểu hiện kiểu hành chính, đại bộ phận cán bộ công đoàn ở khu vực ngoài quốc doanh là người trực tiếp sản xuất , không có điều kiện học tập nâng cao trình độ và kỹ năng hoạt động thậm chí vì miếng cơm , manh áo , sợ mất việc làm mà thiếu bản lĩnh trong đấu tranh bảo vệ đoàn viên công đoàn . Cùng với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động sang hướng công nghiệp và dịch vụ , giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất nhanh , không chỉ là lực lượng chính trị - xã hội quan trọng mà còn là người nắm giữ cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại nhất của nền kinh tế , có vai trò quyết định vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Do đó , từ diễn đàn Đại hội này chúng tôi trân trọng nêu một số kiến nghị . Thứ nhất , Đảng cần có ngay chiến lược tổng thể , toàn diện xây dựng , phát huy vai trò giai cấp công nhân trong giai đoạn mới .

408

Lãnh đạo Nhà nước xây dựng và thực hiện có hiệu quả một chương trình phát triển của quốc gia đối với giai cấp công nhân . Tập trung đầu tư thích đáng cả về vật chất , tinh thần , gắn phát triển kinh tế với đảm bảo các vấn đề xã hội . Đây là thước đo thể hiện bản chất kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa , trước mắt cũng như lâu dài , để tạo cho giai cấp công nhân , tổ chức Công đoàn Việt Nam phát triển mạnh mẽ . Trước mắt cần tập trung lãnh đạo hoàn thiện chính sách và đẩy mạnh thực hiện chính sách đào tạo , đào tạo lại công nhân để giai cấp công nhân có trình độ chính trị , học vấn , chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Tiếp tục lãnh đạo hoàn thiện chính sách tiền lương , tiền công và công tác tổ chức tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế để đảm bảo cuộc sống cho công nhân lao động và gia đình họ .

Đặc biệt quan tâm lãnh đạo hoàn thiện chính sách nhà ở tích cực hơn , có cơ chế , chính sách cụ thể để hỗ trợ về nhà ở cho đối tượng có thu nhập thấp ở các khu công nghiệp , khu chế xuất , những gia đình công nhân nghèo và có chính sách huy động các nhà đầu tư xây dựng khu tập thể cho công nhân thuê nhằm bảo đảm cho công nhân có nơi ở , có môi trường sống lành mạnh . Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra , giám sát việc thực hiện pháp luật lao động , Luật Công đoàn , bảo hộ lao động, các chính sách bảo hiểm cho công nhân , chú trọng chăm lo cải thiện điều kiện lao động , phòng chống có hiệu quả tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp . Xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, bất luận đó là chủ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào , không vì thu hút đầu tư bằng mọi giá mà xem nhẹ quyền lợi của công nhân , lao động . - Thứ hai , đề nghị Đảng tiếp tục kiên định lập trường và cụ thể

409

hoá trong hoạt động thực tiễn việc tăng cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, theo chúng tôi đây là vấn đề cực kỳ quan trọng, nó không phải chỉ là vấn đề câu chữ ghi trong văn kiện , mà nó ảnh hưởng trực tiếp đến đường lối , chiến lược của Đảng . Nhất là trong điều kiện hiện nay không ít người muốn xem nhẹ yếu tố giai cấp , thậm chí có ý kiến còn muốn từ bỏ quan điểm đấu tranh giai cấp và mục tiêu lý tưởng của Đảng. Hơn lúc nào hết , chúng tôi cho rằng phải thấm nhuần sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh : Giai cấp công nhân mà không có một chính Đảng cách mạng lãnh đạo thì khác nào con thuyền không có người cầm lái , dễ mất phương hướng . Còn Đảng Cộng sản không mang bản chất giai cấp công nhân , không đứng trên lập trường của giai cấp công nhân thì không còn là một đảng tiên phong cách mạng . Suốt chặng đường 76 năm qua , Đảng ta đã công khai khẳng định như vậy , nhưng vẫn được các giai cấp , tầng lớp và nhân dân ta tin theo Đảng làm cách mạng vì Đảng ta có đường lối đúng đắn , sáng tạo . Do vậy , không phải chỉ là vấn đề bản chất của Đảng , mà vấn đề cốt lõi là đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục đổi mới nội dung , phương thức , năng lực lãnh đạo đáp ứng yêu cầu của đất nước . Thứ ba , Đảng cần đẩy

mạnh công tác xây dựng tổ chức đảng

và các tổ chức chính trị - xã hội trong giai cấp công nhân , vì hiện nay hệ thống chính trị trong công nhân lao động rất mỏng, thậm chí có nơi còn là những điểm trắng . Do đó , cần tăng cường tuyên truyền vận động, giáo dục công nhân , coi nhiệm vụ giáo dục công nhân là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị , tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo phát triển Đảng trong công nhân , lao động, nhất là công nhân lao động khu vực ngoài quốc doanh , khu vực có vốn đầu tư nước ngoài . Chú trọng đào tạo , bồi dưỡng cán bộ từ những công nhân ưu tú nhằm không ngừng bổ sung cho các cơ quan Đảng, Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, những cán bộ vừa hồng vừa chuyên xuất thân từ công nhân , nếu không tỷ lệ đảng viên trong

410

công nhân , tỷ lệ cán bộ của Đảng, Nhà nước xuất thân từ công nhân ngày càng ít . Và lúc đó không biết Đảng có còn thực sự là đảng mang bản chất giai cấp công nhân nữa không ? Các cấp uỷ đảng, các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng , Nhà nước cần thường xuyên tiếp xúc , làm việc , lắng nghe và giải quyết kịp thời những ý kiến của công nhân , viên chức , lao động và tổ chức Công đoàn . Quan tâm lãnh đạo tạo điều kiện pháp lý và vị thế cho công đoàn để công đoàn thực sự là cầu nối giữa Đảng với quần chúng công nhân viên chức lao động, là tổ chức phản biện xã hội khách quan , có hiệu quả của Nhà nước . - Thứ tư , đề nghị Đảng tăng cường lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu của Đảng, Nhà nước , của các đoàn thể chính trị - xã hội, tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học để nghiên cứu lý luận , tổng kết thực tế về giai cấp công nhân . Về sự lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và sớm có Nghị quyết về xây dựng giai cấp công nhân để Đảng ta có sự phát triển vượt trội về trí tuệ , biểu hiện ở trình độ lý luận và tư duy khoa học , đặc biệt là trình độ lý luận và tư duy khoa học về giai cấp công nhân với một bản lĩnh chính trị cao . Đồng thời , Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo với Công đoàn Việt Nam , Nhà nước cần tạo điều kiện để Công đoàn Việt Nam hoạt động . Trước mắt cần có một chương trình nghiên cứu tổng thể cấp Nhà nước về giai cấp công nhân . Dưới sự lãnh đạo của Đảng , cán bộ , công nhân , viên chức , lao động và tổ chức Công đoàn cả nước quyết tâm phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng và giai cấp công nhân , nêu cao ý chí tự lực tự cường, đoàn kết đồng lòng , quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng lần thứ X , cùng toàn Đảng, toàn dân đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , vì mục tiêu "dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh " theo định hướng xã hội chủ nghĩa .

411

QUAN TÂM HƠN NỮA VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI, TẠO ĐIỀU KIỆN CHO PHỤ NỮ THAM GIA CÁC HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VÀ XÃ HỘI ( Tham luận của đồng chí Hà Thị Khiết, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam , Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng , lãnh đạo , sau 20 năm đã đạt được những thành tựu to lớn , và có ý nghĩa lịch sử . Dưới sự lãnh đạo của Đảng , các tầng lớp phụ nữ đã phát huy tiềm năng , sức sáng tạo góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội . Được hưởng thụ thành quả của công cuộc đổi mới , đời sống vật chất , tinh thần của phụ nữ không ngừng được cải thiện , vị thế của phụ nữ được nâng lên ; bình đẳng giới có những tiến bộ đáng kể . Chị em được tạo cơ hội tốt hơn để nâng cao trình độ năng lực , giải quyết việc làm , phát triển kinh tế , xoá đói giảm nghèo , tăng thu nhập , chăm sóc sức khoẻ , ổn định đời sống , xây dựng gia đình " no ấm , bình đẳng , tiến bộ, hạnh phúc" . Thành tựu về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đánh dấu sự thành công của Đảng trong công tác vận động quần chúng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng

412

và bảo vệ Tổ quốc . Những thành tựu đó không tách rời thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ; đồng thời là kết quả trực tiếp , tất yếu từ sự tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác vận động phụ nữ ; từ hệ thống luật pháp , chính sách của Đảng, Nhà nước về bình đẳng giới ngày càng được hoàn thiện ; từ tinh thần vượt khó , phát huy nội lực phấn đấu vươn lên của các tầng lớp phụ nữ ; từ sự chủ động, sáng tạo , trách nhiệm cao trong hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam ; trong đó , điều quan trọng hơn phải thừa nhận đó là nhận thức của các cấp uỷ đảng , chính quyền và xã hội về bình đẳng giới ngày càng được nâng lên rõ rệt . Kết quả đạt được thể hiện qua kiểm điểm thực hiện 8 mục tiêu thiên niên kỷ tại Liên hợp quốc năm 2005 đã đánh giá : "Việt Nam là điểm sáng về 3 mục tiêu : Xoá mù chữ , xoá đói giảm nghèo , bình đẳng giới". Việt Nam thuộc nhóm nước có thành tựu khá trong khu vực về chỉ số phát triển giới , xếp thứ 87/144 quốc gia trên thế giới ( Trung Quốc : 83 , Thái Lan : 61 , Philippin : 66 , Xingapo : 28 , Campuchia : 105 , Lào : 109 ). Với tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khoá XI chiếm 27,31 % , Việt Nam đã dẫn đầu các nước châu Á về tỷ lệ nữ trong Quốc hội . Nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng hơn so với khoá trước .

Cấp tỉnh , thành từ 22,33% - 23,83 % (tăng 0,50 % )

· Cấp quận , huyện từ 20,12 % - 22,94 % (tăng 2,82 %) Cấp xã , phường từ 16,56 % - 20,10 % (tăng 3,54 % ) Cán bộ nữ tham gia cấp uỷ nhiệm kỳ hiện nay cũng tăng so với nhiệm kỳ trước : - Cấp tỉnh , thành từ 11,32 % - 11,75 % (tăng 0,43 %) , có 4 nữ Bí thư Tỉnh uỷ , 5 Phó Bí thư Tỉnh uỷ .

Cấp quận , huyện từ 12,89 % - 14,74 % (tăng 1,85 %) - Cấp xã , phường từ 11,88 % - 15,08 % (tăng 3,20 % )

413

Ban Chấp hành Trung ương khoá IX có 13 đồng chí nữ, 1 đồng chí Bí thư Trung ương Đảng. Trong các cơ quan quản lý nhà nước cao nhất có Phó Chủ tịch nước là nữ ; nữ Bộ trưởng và tương đương là 11,29% ; nữ Thứ trưởng và tương đương là 12,85 % ; nữ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh là 3,12 % , nữ Phó Chủ tịch là 16,08% , nữ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận , huyện là 3,62 % , nữ Phó Chủ tịch là 14,48% , nữ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã , phường là 3,42 % , nữ Phó Chủ tịch là 8,84 % ... Trong sản xuất kinh doanh ngày càng xuất hiện nhiều phụ nữ giỏi đã đảm nhận các chức danh Tổng Giám đốc , Phó Tổng Giám đốc , Giám đốc , Phó Giám đốc , chủ doanh nghiệp ; có nhiều doanh nhân nữ thành công trên các lĩnh vực sản xuất , kinh doanh . Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học , bình đẳng giới cũng có những tiến bộ đáng kể, đội ngũ trí thức được tăng lên cả về số lượng , chất lượng , chiếm 37% trong tổng số người có trình độ đại học , cao đẳng; nữ tiến sĩ chiếm 19,9% , nữ giáo sư, phó giáo sư chiếm 6,7% . Về phát triển đảng viên nữ : nhiều cấp uỷ đảng đã quan tâm chỉ đạo phát triển đảng viên nữ , coi đây là biện pháp quan trọng trong việc tạo nguồn cán bộ nữ . Tỷ lệ đảng viên nữ năm 1994 đạt 16,40 % ; năm 1999 đạt 19,30% ; năm 2002 đạt 21,70% và chiếm 35,70% trong tổng số đảng viên mới được kết nạp ; năm 2005 , đảng viên nữ mới được kết nạp tăng so với năm 2004 là 11,35% và chiếm 37,24 % trong tổng số đảng viên mới kết nạp . Sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam được thể hiện thông qua sự tham gia của cán bộ nữ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp đã đánh dấu một bước tiến mới về công tác cán bộ nữ của Đảng trong 20 năm đổi mới . Được Đảng quan tâm bồi dưỡng , đại bộ phận cán bộ nữ đã trải nghiệm trong thử thách của kinh tế thị trường và quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước vẫn giữ được lối sống lành mạnh , có phẩm chất

414

tốt , bản lĩnh chính trị vững vàng, tôn trọng kỷ luật , tuân thủ pháp luật , hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao . Nhiều cán bộ nữ là tấm gương tiêu biểu của phụ nữ Việt Nam về phát huy truyền thống "Anh hùng , bất khuất , trung hậu, đảm đang " trước đây , quyết tâm cao để "Năng động , sáng tạo , trung hậu, đảm đang " trong thực hiện đường lối đổi mới của Đảng ngày nay . Có được như vậy là kết quả của quá trình đào tạo , bồi dưỡng , giúp đỡ của các cấp uỷ đảng, sự phấn đấu không mệt mỏi của chính mỗi cán bộ nữ , thể hiện sự chuyển biến sâu sắc hơn trong nhận thức về vai trò , vị trí đội ngũ cán bộ nữ . Qua đó càng khẳng định công tác cán bộ nữ đã được đặt vào trong chủ trương lãnh đạo , chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền , Mặt trận và các đoàn thể . Công tác quy hoạch , tạo nguồn cán bộ nữ được nhiều cấp , nhiều ngành quan tâm hơn . Đảng , Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện cho cán bộ nữ học tập , rèn luyện phấn đấu và trưởng thành . Nhân dịp này , thay mặt cho phụ nữ Việt Nam , chúng tôi trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới Đảng , Nhà nước , các cấp , các ngành , các đồng chí nam giới đã dành cho phụ nữ sự quan tâm động viên , khích lệ , tạo điều kiện cho chúng tôi có được môi trường thuận lợi để phấn đấu và tham gia ngày càng nhiều hơn vào công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu "dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ , văn minh " ; vì sự tiến bộ và phát triển của phụ nữ Việt Nam . Những thành tựu , kết quả trên về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ , đặc biệt là sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động lãnh đạo , quản lý nhà nước , quản lý xã hội đã tạo tiền đề quan trọng cho sự phát triển của phụ nữ Việt Nam trong thế kỷ XXI . Tuy nhiên , những cố gắng và kết quả đạt được còn chưa tương xứng với lực lượng phụ nữ Việt Nam , chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ của giai đoạn cách mạng mới . Trong thực tế còn có một số cấp uỷ , chính quyền , cán bộ , đảng

415

viên nhận thức về vai trò , vị trí của phụ nữ, về cán bộ nữ chưa sâu sắc và toàn diện ; thậm chí ở một vài nơi còn có hiện tượng nhìn nhận , đánh giá phụ nữ một cách cầu toàn , mang tính cào bằng , không tính đến yếu tố về giới ; cũng không ít trường hợp còn khắt khe , hẹp hòi , chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ nữ vươn lên ; công tác quy hoạch , đào tạo , bồi dưỡng tạo nguồn cán bộ nữ chưa tốt dẫn đến tình trạng đội ngũ cán bộ nữ phát triển không vững chắc . Ở nước ta , tỷ lệ nữ tham gia lao động cao nhất ở khu vực , tới 83 % , gần ngang bằng với nam giới (85 %) và chiếm trên 48% lực lượng lao động toàn xã hội , là nguồn nhân lực rất dồi dào . Tuy nhiên, tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo nghề chỉ đạt 20,45 % , bằng 30% so với nam giới . Trong sản xuất nông nghiệp , phụ nữ cũng ít được tham gia tập huấn kỹ thuật, vẫn còn tình trạng "nữ làm , nam học " . Do ít được đào tạo, trình độ tay nghề thấp , cơ hội việc làm hạn chế, nên phụ nữ chiếm số đông trong các công việc lao động giản đơn , thiếu ổn định , thu nhập thấp , bấp bênh , đời sống khó khăn . Nhu cầu được hỗ trợ tạo việc làm tăng thu nhập đối với lao động nữ ở nông thôn , đặc biệt đối với nhóm phụ nữ nghèo , là rất lớn , nhưng việc đáp ứng còn hạn chế. Một số bộ phận lao động nữ trẻ ở vùng sâu , vùng khó khăn , nơi tỷ lệ hộ nghèo còn cao , học vấn thấp , không được đào tạo nghề , khó tìm kiếm việc làm ; có những em gái bị rơi vào cạm bẫy của bọn buôn người, sa vào tệ nạn xã hội , hoặc tìm đến con đường lấy chồng nước ngoài ... Ở những nơi phụ nữ làm nghề dịch vụ , lao động nữ trong các khu công nghiệp , khu chế xuất , trong các doanh nghiệp tư nhân , một bộ phận phụ nữ ít tham gia hoạt động xã hội . Trong nội bộ cán bộ nữ vẫn còn hiện tượng chưa thật sự cổ vũ động viên , ủng hộ nhau để hoàn thành nhiệm vụ . Những tồn tại nêu trên có nguyên nhân khách quan của sự phân công lao động xã hội ; do tác động mặt trái của nền kinh tế thị

416

trường và toàn cầu hoá . Nhưng , nguyên nhân sâu xa và chủ yếu vẫn là do nhận thức về vị trí , vai trò của phụ nữ , nhận thức về sự bình đẳng nam nữ còn hạn chế , trong đó có cán bộ , đảng viên và bản thân phụ nữ . Quan niệm truyền thống coi việc chăm lo công việc gia đình là của người phụ nữ , chia sẻ công việc gia đình chưa trở thành trách nhiệm thường xuyên của nam giới , đã dồn gánh nặng gia đình chủ yếu lên vai người phụ nữ , làm cho họ ít có điều kiện , cơ hội học tập , tiến bộ . Dù Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương , chính sách nhằm bảo vệ lao động nữ và tạo điều kiện cho phụ nữ được bình đẳng , nhưng còn thiếu giải pháp cụ thể nên có những quy định hầu như không được quan tâm thực hiện ; mặt khác , có quy định không còn phù hợp với sự phát triển xã hội , trở thành yếu tố cản trở bình đẳng giới, nhưng chậm được sửa đổi . Về phần trách nhiệm của Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam : chưa thật sự chủ động trong việc tham mưu đề xuất với Đảng, Nhà nước về công tác vận động phụ nữ ; hoạt động của các cấp Hội chưa đáp ứng được một số vấn đề thực tiễn đặt ra , trình độ , năng lực đội ngũ cán bộ ở một số cấp Hội chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới , chưa thực sự mạnh mẽ trong việc thực hiện chức năng đại diện quyền dân chủ , bình đẳng của phụ nữ . Để tăng cường bình đẳng giới , tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội , thực hiện tốt vai trò người công dân , người lao động, người mẹ , người thầy đầu tiên của con người , Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam kiến nghị một số vấn đề sau đây : - Thứ nhất : Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng làm chuyển biến sâu sắc nhận thức xã hội về bình đẳng giới . Trước hết , tập trung nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ đảng , chính quyền , cho cán bộ , đảng viên về vấn đề giới . Sớm nghiên cứu , ban hành nghị quyết về công tác vận động phụ nữ , cán bộ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , đáp ứng nguyện vọng , sự mong

417

đợi của các tầng lớp phụ nữ trong cả nước . · Thứ hai : Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp , chính sách theo hướng bảo đảm bình đẳng giới . Rà soát, sửa đổi những quy định tạo ra sự bất lợi đối với lao động nữ của pháp luật lao động, trong đó có sự phân biệt về tuổi tuyển dụng, đào tạo, đề bạt trên cơ sở tuổi nghỉ hưu của lao động nữ. Chính phủ và các bộ , ngành cần cụ thể hoá để thực hiện các chính sách ưu đãi cho lao động nữ và các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ . Quán triệt

quan điểm giới trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược , chương trình mục tiêu , kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Chiến lược quốc gia về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 . - Thứ ba : Tăng cường công tác giám sát , kiểm tra , đánh giá việc thực hiện luật pháp , chính sách về bình đẳng giới ; coi đó là một nội dung trong kế hoạch công tác giám sát định kỳ của Quốc hội , Hội đồng nhân dân các cấp ; trong công tác kiểm tra , đánh giá của các cơ quan Đảng, quản lý nhà nước , Mặt trận và đoàn thể các cấp . Đảng, Nhà nước cần có quy định cụ thể trong xử lý các hành vi vi phạm luật pháp , chính sách về bình đẳng giới , nhất là những vấn đề thuộc về quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ . Về phần trách nhiệm của Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam , Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc đề xuất , tham mưu với Đảng, Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ . Chăm lo xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ Hội , đặc biệt là cán bộ cơ sở .

Phụ nữ là lực lượng cách mạng rất to lớn ; tổ chức tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày nay được Đảng quyết định thành lập từ tháng 10 năm 1930. Từ khi có Đảng, phụ nữ Việt Nam luôn luôn gắn bó theo Đảng và được Đảng quan tâm , dìu dắt . Sự thành công của Đảng trong mỗi giai đoạn cách mạng có tính chất quyết định về sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam . Chúng tôi hiểu sâu sắc rằng nếu không có Đảng, Bác Hồ lãnh đạo , phụ nữ

418

không thể có cuộc sống ấm no, tự do , hạnh phúc, bình đẳng và tiến bộ như ngày hôm nay . Vì vậy, trong bất kỳ hoàn cảnh , điều kiện nào của đất nước , phụ nữ Việt Nam nguyện một lòng, một dạ , nguyện cả đời theo Đảng Cộng sản Việt Nam . Chúng tôi xin kính dâng lên Đảng, lên Đại hội cả tâm huyết , niềm tin trọn vẹn của phụ nữ Việt Nam đối với Đảng kính yêu và mong muốn Đảng quyết tâm chính trị cao hơn nữa trong việc thực hiện phòng, chống tệ tham nhũng, quan liêu , lãng phí; không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch , vững mạnh , lãnh đạo đưa đất nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển để nhân dân ta , trong đó có phụ nữ Việt Nam , mãi mãi được sống trong độc lập , tự do , ấm no , hạnh phúc . Dưới sự lãnh đạo của Đảng , chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhất định thành công ; mục tiêu " dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng, dân chủ , văn minh " nhất định sẽ trở thành hiện thực .

419

VAI TRÒ CỦA CỰU CHIẾN BINH TRONG VIỆC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG YÊU NƯỚC , CHỦ NGHĨA ANH HÙNG CÁCH MẠNG CHO THẾ HỆ TRẺ ( Tham luận của đồng chí Trần Hanh , Phó Chủ tịch, Phó Tổng thư ký Hội Cựu chiến binh Việt Nam )

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình , Bác Hồ luôn luôn đánh giá cao vị trí vai trò của thanh niên và thường xuyên dành cho thế hệ trẻ những tình cảm đằm thắm và sự quan tâm đặc biệt . Trước lúc đi xa , Người vẫn không quên nhắc tới nhiệm vụ "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất cần thiết" . Đây là nhiệm vụ Bác đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị . Thấm nhuần tư tưởng của Bác Hồ , cựu chiến binh Việt Nam vừa quán triệt sâu sắc nhiệm vụ chính trị hàng đầu là đoàn kết cựu chiến binh phát huy truyền thống " Bộ đội Cụ Hồ" tham gia bảo vệ Đảng , bảo vệ chính quyền , bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa , vừa nhận thức sâu sắc vai trò của mình trong việc giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ và trong thực tế cựu chiến binh đã đến với thanh niên bằng tất cả trách nhiệm và tình cảm của mình . Xác định là trách nhiệm , vì ngay trong quyết định cho phép thành lập Hội Cựu chiến binh Việt Nam , Đảng đã giao cho Hội nhiệm vụ giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng

420

cho thế hệ trẻ . Nghị quyết các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng và đặc biệt là Nghị quyết 09 , ngày 8-1-2002 của Bộ Chính trị đều khẳng định nhiệm vụ chính trị quan trọng này . Mới đây , Pháp lệnh Cựu chiến binh vừa được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 7-10-2005 lại một lần nữa quy định các nhiệm vụ của cựu chiến binh , trong đó có nhiệm vụ giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ . Về tình cảm, cựu chiến binh là những người ông , người cha , người chú , người anh , người chị gần gũi cùng sống tại cộng đồng với lớp trẻ nhưng cũng chính cựu chiến binh là những người đã từng cống hiến cả tuổi trẻ của mình cho cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài gian khổ của các cuộc kháng chiến đầy hy sinh oanh liệt để giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc . Cựu chiến binh đã trực tiếp góp phần vun đắp cho truyền thống yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng , do đó cũng rất trân trọng và hết mình truyền thụ lại cho thế hệ trẻ tiếp tục giữ vững và phát huy . Mặt khác , thế hệ trẻ cũng đến với cựu chiến binh một cách rất tự nhiên bởi ý thức rằng truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng được xây đắp bởi lớp lớp thanh niên . Truyền thống ấy cũng chính là truyền thống của thanh niên qua các thế hệ . Vì vậy , Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã gắn bó với nhau vì một mục đích chung là giữ gìn , phát huy truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời kỳ mới .

Tuy vậy có nơi , có lúc đã bộc lộ khuyết điểm là vẫn còn biểu hiện " cha , chú " , gia trưởng , thiếu tin cậy vào lớp trẻ ở một số ít cựu chiến binh và vì mặc cảm tự ti , ỷ lại của bản thân thanh niên . Hạn chế này đã và đang được khắc phục từng bước có hiệu quả . Từ nhận thức vai trò của cựu chiến binh trong việc giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ , trong hoạt động thực tiễn của mình , Hội Cựu chiến binh Việt Nam đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp .

421

Một là, các cấp Hội Cựu chiến binh Việt Nam thường xuyên phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cùng cấp tích cực tham mưu cho các cấp uỷ đảng ra nghị quyết và chỉ đạo công tác giáo dục thanh thiếu niên . Không những nghị quyết chung , nghị quyết lãnh đạo thường kỳ mà còn ra các nghị quyết chuyên đề trong những thời điểm nhất định hoặc tập trung vào những nhiệm vụ trọng điểm từng thời kỳ . Hai là, phối hợp chặt chẽ giữa các cấp Hội và Đoàn từ hình thức thấp đến cao , từ các chương trình phối hợp hoạt động , các thông tư liên tịch đến nghị quyết liên tịch để thực hiện nhiệm vụ chính trị chung là giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ . Ba là, đa dạng hoá các hình thức tập hợp thanh niên , đưa thanh niên vào các tổ chức để tiến hành giáo dục có hiệu quả bằng nhiều biện pháp : giáo dục bằng nói chuyện - giao lưu giữa cựu chiến binh và thanh niên để "nghe thanh niên nói" và "nói với thanh niên " ; các hoạt động chung về văn hoá - văn nghệ , thể dục thể thao ; các cuộc thi tìm hiểu ; các cuộc hành hương về nguồn ; các hoạt động đền ơn đáp nghĩa ; các hoạt động chung về các chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương ; phối hợp với các phong trào của Đoàn như " Thanh niên tình nguyện" , " Thanh niên lập nghiệp " , "Tuổi trẻ giữ nước" , " Tháng Thanh niên " ... Thông qua đó , vận động thanh niên vào Hội Liên hiệp Thanh niên , vận động kết nap thanh niên vào Đoàn , khắc phục tình trạng những cơ sở " trắng" đoàn , vận động thành lập chi đoàn mới , củng cố các chi đoàn yếu kém . (Chỉ trong 5 năm gần đây đã giúp đỡ thành lập 15.000 chi đoàn mới , 8.000 chi hội , củng cố hơn 7.000 chi đoàn từ yếu kém vươn lên khá , giỏi; Hội Cựu chiến binh tỉnh Thái Bình là một trong những đơn vị tiêu biểu về việc đa dạng hoá các hình thức giáo dục thanh thiếu niên ) .

422

Bốn là, kết hợp giữa giáo dục chung và giáo dục riêng biệt . Riêng biệt ở đây được hiểu ở cả hai mặt : một mặt, phân công giáo dục bồi dưỡng các đoàn viên ưu tú để kết nạp Đảng ; mặt khác , chăm lo giáo dục cảm hóa các cháu chưa ngoan , thậm chí hư hỏng trở thành người tốt ( 5 năm qua đã bồi dưỡng được 230.000 đoàn viên ưu tú trong đó trên 8.000 đã được kết nạp Đảng; Hội Cựu chiến binh huyện Nho Quan, Ninh Bình là một trong những đơn vị tiêu biểu về mặt này : hơn 39.000 cháu chậm tiến đã được giáo dục tiến bộ) . Từ mô hình " 1 + 2 " của Hội Cựu chiến binh phường Ba Đình , thành phố Thanh Hoá đã được nhân rộng ra toàn tỉnh : cứ 1 hộ gia đình cựu chiến binh liên kết với 2 hộ liền kề cùng quản lý giáo dục con em tiến bộ , không mắc tội phạm và các tệ nạn xã hội . Mô hình này được cựu chiến binh nhiều nơi học tập . Hội viên cựu chiến binh Ngô Đình Thành , huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên , có 3 con trai do thiếu tu dưỡng , đua đòi ăn chơi với bạn bè xấu , sa vào nghiện ngập ma tuý nặng , tưởng như gia đình rơi vào tình trạng bi đát vô phương cứu chữa . Được sự gần gũi động viên giúp đỡ chân tình của Hội Cựu chiến binh cơ sở , gia đình bốn bố con cùng đem nhau lên một quả đồi , cách ly hẳn với môi trường xấu , hơn 5 năm liền lao động cực nhọc khai phá sản xuất , cả 3 cháu không những cai hẳn được nghiện mà còn xây dựng khu đồi hoang thành một trang trại có hiệu quả kinh tế , được Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm biểu dương, khen thưởng . Năm là, xác định đúng đối tượng trọng điểm , vùng trọng điểm để đầu tư tập trung cho công tác giáo dục . Đó là thanh thiếu niên trong nhà trường phổ thông, sinh viên trong các trường đại học , cao đẳng ; thanh niên đường phố ; thanh niên vùng có tôn giáo , vùng dân tộc thiểu số và đặc biệt là thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ trở về . Đây là lực lượng đông đảo , tăng dần hàng năm , được rèn luyện trong quân ngũ , là đối tượng cần được giáo dục , bồi dưỡng làm nguồn phát triển Đảng và là nguồn cán bộ

423

cho cơ sở . Thực hiện Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị , Hội Cựu chiến binh đã phối hợp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và cơ quan quân sự các cấp vận động thu hút được hơn 800.000 thanh niên hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại ngũ trở về sinh hoạt trong 20.604 các " câu lạc bộ , các ban liên lạc truyền thống cựu quân nhân " ở cơ sở . Sáu là , giáo dục bằng chính sự gương mẫu của cựu chiến binh . Đây chính là việc phát huy truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong đời thường , trên mọi lĩnh vực của cuộc sống . Trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo , làm kinh tế giỏi , cựu chiến binh đã thực sự nêu gương sáng

hàng ngàn cựu chiến binh từ

nghèo khổ trở thành giàu có với thu hoạch hàng trăm triệu đến hàng trăm tỷ đồng mỗi năm ; 13 cựu chiến binh được tuyên dương Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới ; đồng chí thương binh Nguyễn Toàn Thắng ở Sơn Tịnh , Quảng Ngãi cụt cả hai chân , với 11 % sức khoẻ còn lại vẫn trở thành triệu phú nhờ sản xuất giỏi và còn hết lòng giúp đỡ các đồng chí khác còn khó khăn . Để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ trong tình hình các thế lực thù địch chống phá ta cả ở trong và ngoài nước đang không ngừng ra sức tuyên truyền lối sống phương Tây , gieo rắc các loại văn hoá độc hại : coi đồng tiền là trên hết , đua đòi chạy theo thói xa hoa , truỵ lạc cá nhân ... nhằm lôi kéo thanh niên ta xa rời lý tưởng cách mạng , đi tới phủ nhận thành quả cách mạng của biết bao thế hệ ông bà , cha mẹ đi trước đã hy sinh biết bao xương máu mới giành được độc lập - tự do như ngày nay , chúng tôi xin kiến nghị :

·. Giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ là vấn đề chiến lược có ý nghĩa khoa học và thực tiễn rất lớn , cần có sự chỉ đạo thường xuyên của Đảng, sự quan tâm của chính quyền và của cả hệ thống chính trị , trong đó có cựu chiến binh tham gia tích cực .

424

Cần quan tâm nhiều hơn nữa tới việc chăm lo bồi dưỡng mục tiêu lý tưởng cho thanh thiếu niên , nhất là đối với học sinh , sinh viên và cần đầu tư nhiều hơn nữa trong việc chăm lo đời sống và việc làm của thanh niên .

425

TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC LÝ TƯỞNG CÁCH MẠNG CHO THANH NIÊN ( Tham luận của đồng chí Đào Ngọc Dung , Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

" Thanh niên là tương lai của đất nước , là lực lượng xã hội hùng hậu , có tiềm năng to lớn , xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" . Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII của Đảng ta đã chỉ rõ : Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không , đất nước bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không , cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên , vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên . Thực tế lịch sử qua các thời kỳ cách mạng cho thấy Đảng ta luôn luôn coi trọng công tác thanh niên , trọng tâm là giáo dục , bồi dưỡng thanh niên về lý tưởng cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị , hướng tới mục tiêu xây dựng những lớp người kế tục , trung thành tuyệt đối theo lý tưởng "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" . Lý tưởng ấy được cụ thể hoá trong mỗi giai đoạn của cách mạng Việt Nam , thành những sứ mệnh lịch sử mang tính thời đại của thanh niên . Chính vì vậy , khi nước nhà bị xâm lăng, chân lý và lý tưởng cách mạng mà thanh niên hướng đến không gì khác ngoài tranh đấu xả thân cho độc lập , tự do và thống nhất của Tổ quốc ; và hôm nay , trong thời kỳ cách mạng mới , nhiệm vụ

426

chính trị cao cả của thanh niên là cùng với toàn Đảng, toàn dân tộc ra sức phấn đấu cho mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ , văn minh " , theo đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo .

Quán triệt các quan điểm giáo dục đối với thanh niên của Đảng và Bác Hồ, thời gian qua , Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát huy vai trò nòng cốt trong công tác thanh niên , cùng với các lực lượng giáo dục khác luôn kiên trì thực hiện nhiệm vụ giúp Đảng giáo dục và rèn luyện thanh niên . Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên được triển khai thực hiện đồng bộ dưới nhiều phương thức đa dạng và phong phú , như: thông qua công tác tuyên truyền , giáo dục , triển khai học tập lý luận chính trị cơ bản , học tập , nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh , quán triệt các chủ trương , nghị quyết của Đảng, tổ chức các sinh hoạt truyền thống , giáo dục đạo đức , lối sống , tuyên truyền , phổ biến , giáo dục pháp luật ... ; thông qua phong trào thi đua yêu nước trong các cộng đồng dân cư và các phong trào hành động cách mạng của tuổi trẻ : "Thanh niên lập nghiệp" , "Tuổi trẻ giữ nước" , "Thanh niên tình nguyện" , " Thi đua , tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" ... ; thông qua công tác tổ chức , bồi dưỡng thanh niên phấn đấu trở thành đoàn viên ; qua các sinh hoạt của chi đoàn , qua công tác đoàn kết , tập hợp thanh niên vào tổ chức hội do Đoàn làm nòng cốt ; qua nhiệm vụ bồi dưỡng giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp và tham gia xây dựng Đảng , xây dựng hệ thống chính trị ; qua việc quản lý, giáo dục thanh thiếu nhi của gia đình , nhà trường và xã hội . Kết quả là , cùng với những thành tựu quan trọng và to lớn đạt

427

được trong thời gian qua của đất nước , công tác giáo dục thanh niên đã góp phần tạo dựng nên một lớp thanh niên mới , trong đó có bộ phận thanh niên tiên tiến đi đầu trên nhiều lĩnh vực , có nhận thức tốt và ý thức chính trị cao , có ý chí vượt qua khó khăn , vươn lên lập thân , lập nghiệp , phát huy mạnh mẽ truyền thống xung kích đi đầu của những thế hệ thanh niên cách mạng lớp trước và đó cũng là những phẩm chất cách mạng của thanh hiện ngày nay . Từ đó , vị trí , vai trò của thanh niên trong xã hội không ngừng được khẳng định và nâng cao , thông qua việc thanh niên tham gia ngày càng nhiều và có hiệu quả vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội , giữ vững quốc phòng, an ninh của đất nước . Mỗi năm , đã có hàng chục triệu lượt đoàn viên , thanh niên hăng hái tham gia trong các phong trào thi đua ; hàng triệu thanh niên được kết nạp mới vào hàng ngũ của Đoàn . Trong vòng 10 năm ( 1995 đến 2004 ) , 1.981.943 đoàn viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng, trong đó 645.332 đồng chí được Đảng xem xét kết nạp , chiếm 53,26% tổng số đảng viên mới kết nạp . Riêng năm 2005 , đã có 226.194 đoàn viên ưu tú được giới thiệu cho Đảng, trong đó 107.124 đồng chí được kết nạp vào Đảng, tăng 12,66 % so với năm 2004 và chiếm 63,51 % trong tổng số đảng viên mới được kết nạp . Hàng nghìn đồng chí đoàn viên trẻ được kết nạp Đảng khi tuổi đời mới tròn 18 . Điều đó đã góp phần tăng cường sức trẻ cho Đảng, khẳng định xu hướng tích cực chính trị - xã hội trong thanh niên , đồng thời cũng chính là thành quả to lớn trong chiến lược phát triển nhân tố con người của Đảng và Nhà nước ta . Tuy nhiên , thanh niên ngày nay cũng đang đứng trước những khó khăn , hạn chế rất đáng lưu tâm : một bộ phận lớp trẻ còn ít quan tâm hoặc ngại tham gia vào các sinh hoạt chính trị và các hoạt động xã hội , nhận thức chính trị còn non kém , chưa xác định được lý tưởng sống đúng đắn , coi nhẹ những giá trị truyền thống , tốt đẹp của dân tộc , bị ảnh hưởng xấu bởi lối sống ngoại lai , sự

428

xâm lăng văn hoá và những tiêu cực , mặt trái của cơ chế thị trường; động cơ học tập , định hướng nghề nghiệp còn chưa thích ứng với thị trường lao động; tình trạng thất nghiệp , thiếu việc làm , thu nhập thấp còn khá phổ biến ; kiến thức , kỹ năng và phẩm chất cần thiết của lao động trẻ trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế chưa cao ; các tệ nạn xã hội , đặc biệt là ma tuý , mại dâm , tình trạng lây nhiễm HIV /AIDS ,... diễn biến phức tạp , trong đó thanh , thiếu nhi vừa là đối tượng vừa là nạn nhân . Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng nguồn nhân lực trẻ cho sự phát triển của đất nước . Mặt khác , thanh niên ngày nay cũng đang phải đối mặt với những thách thức mới . Do tâm lý lứa tuổi , thanh niên còn thiếu bản lĩnh , kinh nghiệm trong cuộc sống , lại gặp phải tác động từ sự thay đổi nhanh và đa dạng trong quan niệm về các chuẩn mực giá trị xã hội và văn hoá ; sự gia tăng phân hoá giàu nghèo , sự tha hoá , biến chất trong một bộ phận cán bộ , đảng viên ; những thông tin xấu , độc hại lan truyền trên Internet , những âm mưu và hành động chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch ;

trong khi

đó , năng lực cụ thể hoá các chủ trương của Đảng , Nhà nước trong công tác giáo dục đối với thanh , thiếu nhi ở một số đơn vị còn yếu ; chưa phát huy được sức mạnh đồng bộ của các lực lượng xã hội trong giáo dục thanh niên ; việc nắm bắt , xử lý diễn biến tư tưởng trong thanh niên và thực hiện nội dung giáo dục lý tưởng , đạo đức cách mạng cho thanh niên hiệu quả còn thấp ; hình thức giáo dục còn xơ cứng , thiếu hấp dẫn ; nhiều vấn đề về quyền và lợi ích chính đáng của thanh niên chậm được giải quyết ; việc đầu tư cho công tác giáo dục thanh niên chưa tương xứng với yêu cầu , nhiệm vụ của tình hình . Trong bối cảnh trên , việc tăng cường công tác thanh niên , đặc biệt là giáo dục về lý tưởng cách mạng nhằm " hình thành một lớp thanh niên nam , nữ ưu tú , vững vàng về chính trị , kiên định con

429

đường xã hội chủ nghĩa" , " có lý tưởng cao đẹp " , "sống có văn hoá và tình nghĩa , giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính " , biết "nuôi dưỡng hoài bão lớn " , " tự cường dân tộc " là đòi hỏi và nhiệm vụ đặt ra rất cần thiết và cấp bách . Báo cáo chính trị tại Đại hội X đã chỉ rõ : "Đối với thế hệ trẻ , thường xuyên giáo dục chính trị , truyền thống, lý tưởng , đạo đức , lối sống, tạo môi trường thuận lợi để phát triển toàn diện " . Nhằm góp phần thực hiện định hướng đó , chúng tôi xin được nêu ra một số nội dung giải pháp và kiến nghị như sau : - Một là, vấn đề thanh niên đã được xác định " ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nguồn lực con người" . Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục thanh niên phát triển toàn diện là một trong những yếu tố bền vững của sự nghiệp cách mạng . Vì vậy, trước hết , cần không ngừng tăng cường giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị , bồi dưỡng đạo đức , lý tưởng cách mạng của Đảng, của dân tộc , bồi dưỡng lòng yêu nước , yêu chủ nghĩa xã hội cho thế hệ trẻ ; lấy giáo dục nhân cách , "giáo dục làm người " là chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh . Thanh niên ngày nay được sinh ra và lớn lên trên đất nước hoà bình , được hưởng những thành quả đấu tranh và lao động sáng tạo của các thế hệ cha anh , có nhiều điều kiện tốt để vươn cao và xa hơn , song điều cốt yếu hiện nay là cần tạo dựng cho thanh niên ý chí tự lực , tự cường, không cam chịu đói nghèo, lạc hậu , dám tự tin vượt qua mọi khó khăn , thử thách . Nói cách khác , đó chính là quá trình xây dựng động cơ , tạo nội lực tinh thần cho thanh niên . Đặc biệt , trong nền kinh tế thị trường , mở cửa , hội nhập kinh tế quốc tế, bùng nổ thông tin mạnh mẽ như ngày nay , việc bồi dưỡng lý tưởng , tạo dựng bản lĩnh chính trị cho thanh niên chính là còn giúp họ biết chọn lựa , tiếp thu những tinh hoa văn hoá và nâng cao khả năng đề kháng trước các âm mưu phá hoại , chia rẽ , lôi kéo của các thế lực thù địch , các cám dỗ vật chất và các tệ nạn xã hội khác . Việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cần được

430

tiến hành trên cơ sở khoa học và được triển khai thường xuyên , liên tục thông qua việc tổ chức cho thanh niên nghiên cứu , học tập , quán triệt các chủ trương, chính sách , đường lối của Đảng, Nhà nước , học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , triển khai học tập các nội dung lý luận chính trị cơ bản , ... - Hai là , tiếp tục đổi mới mạnh mẽ về phương thức giáo dục đối với thanh niên , trên cơ sở nguyên lý giáo dục khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh , lý luận gắn với thực tiễn , " học " đi đôi với "hành " . Hình thức giáo dục đối với thanh niên cần phù hợp với tâm lý lứa tuổi ưa thích cái mới và sự sáng tạo ; đề cao yếu tố " tự giáo dục" , " tự rèn luyện " của người thanh niên đi đôi với sự định hướng , hỗ trợ , giúp đỡ và hướng dẫn của tổ chức ; gắn kết giữa việc giáo dục lý tưởng cách mạng với việc bảo vệ , chăm lo bồi dưỡng và phát huy khả năng của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng; coi trọng giáo dục thanh niên thông qua giáo dục lịch sử , qua các gương điển hình tiên tiến , qua việc nêu gương , tôn vinh người tốt , việc tốt (cuộc thi tìm hiểu lịch sử 75 năm của Đảng, 60 năm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với hơn 20 triệu lượt thanh niên tham gia và sinh hoạt chính trị "Tiếp lửa truyền thống - Mãi mãi tuổi hai mươi" với cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm , nhật ký Nguyễn Văn Thạc và các nhật ký chiến tranh khác , được sự tham gia của đông đảo thanh niên tạo thành một sự kiện chính trị trong giới trẻ vừa qua , đã cho chúng ta bài học sâu sắc về phương thức giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên) . Công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên cần gắn chặt với những yêu cầu , đòi hỏi của xã hội và cụ thể hoá phù hợp với từng hoàn cảnh , đối tượng thanh niên . Môi trường giáo dục hiệu quả nhất chính là đưa thanh niên hoà mình vào các phong trào thi đua , phong trào hành động cách mạng ( kể cả khi thanh niên còn đang ngồi trên ghế nhà trường) . Thông qua thực tiễn phong trào để giáo dục và nâng cao giác ngộ lý tưởng cách mạng của tuổi trẻ .

431

· Ba là, về phần mình , trong sự quan tâm chăm lo của Đảng và toàn xã hội , chúng tôi ý thức rõ trách nhiệm ra sức xây dựng tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức của thanh niên vững mạnh toàn diện về chính trị , tư tưởng và tổ chức , đủ sức đảm nhận tốt vai trò nòng cốt trong phong trào thanh niên và các hội của thanh niên ; xác định công tác giáo dục thanh niên là nhiệm vụ hàng đầu , là chức năng chủ yếu của tổ chức Đoàn , trong đó nội dung giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên là cốt lõi và xuyên suốt trong mọi hoạt động của mình . Từ đó , các tổ chức thanh niên sẽ tiếp tục tìm tòi , đổi mới các phương thức , tăng cường các nội dung, biện pháp giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên ; lồng ghép nội dung giáo dục trong tất cả các mặt công tác , các hoạt động khác của Đoàn , như đoàn kết , tập hợp thanh niên , tổ chức các phong trào thi đua , đảm nhận các chương trình , dự án phát triển kinh tế - xã hội , thông qua đó để giáo dục và rèn luyện thanh niên ; xây dựng, củng cố tổ chức đoàn , hội , tạo nguồn phát triển đảng viên từ thanh niên ; nâng cao năng lực tham mưu , đề xuất với các cấp uỷ , chính quyền và phối hợp với các cấp , các ngành , đoàn thể , các lực lượng xã hội để tăng cường công tác giáo dục thanh niên .

· Bốn là, công tác thanh niên nói chung và giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên nói riêng đã được Đảng ta chỉ rõ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng ; đó cũng là nhân tố quyết định mọi thành công trong công tác giáo dục thanh niên thời gian qua . Bài học rút ra vừa qua là ở đâu cấp uỷ , chính quyền quan tâm lãnh đạo , chỉ đạo sát sao thì ở đó công tác thanh niên và giáo dục thanh niên của chúng ta có hiệu quả . Trước yêu cầu nhiệm vụ công tác giáo dục thanh niên hiện nay , các cấp uỷ , chính quyền cần tiếp tục tin tưởng ở thanh niên ; giao nhiệm vụ cho thanh niên ; theo dõi , giúp đỡ và tạo điều kiện để thanh niên rèn luyện , trưởng thành ; cổ vũ thanh niên hăng hái , tự

432

tin tham gia vào thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương , đơn vị. Chúng tôi đề nghị rà soát lại và đổi mới căn bản khâu giáo dục chính trị , giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh trong các nhà trường ; quan tâm gắn kết giữa công tác giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên với việc giải quyết các vấn đề chính đáng của thanh niên như: học tập , việc làm , nhu cầu văn hoá , thông tin , vui chơi , giải trí ... để thanh niên phát triển toàn diện . Trên cơ sở phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị , tăng cường đầu tư về mọi mặt cho công tác giáo dục thanh niên , phát huy vai trò quản lý , giáo dục thanh niên của gia đình , nhà trường và xã hội . Sau Đại hội , đề nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá X xem xét ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác thanh niên ; chỉ đạo xây dựng và triển khai đề án tổng thể về giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .

*

Cách mạng nước ta đang chuyển sang thời kỳ mới , thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá với mục tiêu sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển . Mục tiêu đó đã và đang đặt ra những yêu cầu , nhiệm vụ , trọng trách nặng nề đối với thế hệ trẻ hôm nay . Để kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc ta , tuổi trẻ Việt Nam và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh sẽ ra sức rèn luyện , trau dồi lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội , ra sức thi đua trong học tập , lao động , đoàn kết , xung kích , sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc . Văn kiện

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng sẽ

trang bị cho Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh những nhận

433

thức mới , sâu sắc trách nhiệm của mình trước Đảng, Nhà nước và nhân dân trong công tác giáo dục thanh niên , đóng góp thiết thực vào chiến lược con người của Đảng ta trong thời kỳ cách mạng mới. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và tuổi trẻ cả nước bày tỏ ý chí quyết tâm , nguyện một lòng siết chặt hàng ngũ chung quanh Đảng, ra sức phấn đấu đưa Nghị quyết Đại hội vào cuộc sống , tạo ra chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của thanh niên , vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh , xã hội công bằng , dân chủ , văn minh , vì tương lai tươi sáng của tuổi trẻ .

434

MỤC LỤC

Trang

Chủ dẫn của Nhà xuất bản

5

- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh

trong quá trình đổi mới ( Tham luận của đồng chí Lê Hữu Nghĩa , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Khoá IX , Tổng Biên tập Tạp chí

Cộng sản, đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

7

· Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Sáu, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

16

- Kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và

tư tưởng Hồ Chí Minh ( Tham luận của đồng chí Đào Duy Quát, Phó Trưởng ban Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương về công tác tư tưởng )

25

- Tiếp tục đổi mới , nâng cao hiệu quả , đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ( Tham luận của đồng chí Võ Đức Huy , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Phó trưởng ban Ban Kinh tế Trung ương, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Kinh tế Trung ương )

33

435

- Tăng nhanh năng lực , hiện đại hoá ngành Bưu chính - Viễn thông và Công nghệ thông tin ( Tham luận của đồng chí Đỗ Trung Tá , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông, đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long )

41

- Các giải pháp thu hút vốn đầu tư để phát triển ngành công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 (Tham luận của đồng chí Hoàng Trung Hải , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Công

nghiệp , đại biểu Đảng bộ tỉnh Kon Tum )

50

Một số giải pháp nhằm tạo nhiều việc làm và vấn đề cải

cách chính sách tiền lương (Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Lao động - Thương

binh và Xã hội)

60

· - Thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh (Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Thuỷ sản )

69

Ngành thể dục - thể thao tiếp tục đổi mới , nâng cao chất lượng các hoạt động thể dục thể thao, góp phần chăm sóc sức khoẻ nhân dân , phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự

nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ( Tham luận của Ban cán sự đảng Uỷ ban Thể dục - Thể thao )

77

- Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng , hiệu quả và phát triển , tạo điều kiện cho mọi người dân được bảo vệ , chăm sóc và nâng cao sức khoẻ (Tham luận của đồng chí Trần Thị Trung Chiến , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Y tế , đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận )

86

- Những giải pháp mang tính đột phá nhằm tạo sự chuyển biến cơ bản để phát triển giáo dục - đào tạo đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới (Tham luận của đồng chí Nguyễn Minh Hiển , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan khoa giáo Trung ương )

436

96

- Chủ động hội nhập và tăng tốc phát triển , sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển ( Tham luận của đồng chí Hứa Ngọc Thuận , Uỷ viên Ban Thường vụ Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh , đại biểu

Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh )

104

Phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường ở các trung tâm kinh tế và đô thị lớn qua thực tiễn Hải Phòng ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Văn Thuận , Bí thư Thành uỷ Hải Phòng , đại biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng )

111

- Tập trung mọi nỗ lực đẩy mạnh phát triển kinh tế , thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hoá thành phố Cần Thơ và đồng bằng sông Cửu Long ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Tấn Quyên , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , đại biểu Đảng bộ thành

phố Cần Thơ )

119

- Chú trọng đào tạo nghề , giải quyết việc làm cho nhân dân , nhất là ở vùng thu hồi đất nông nghiệp ( Tham

luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá )

126

- Phấn đấu đến năm 2010 đưa Bến Tre thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo , góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng (Tham

luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre )

133

Phát triển có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản ( Tham luận của đồng chí Võ Thanh Bình, Bí thư Tỉnh uỷ

140 Cà Mau , đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau ) - Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng , bảo đảm cho người làm rừng có cuộc sống ổn định ( Tham luận của đồng chí Hoàng Bình Quân, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang, Đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang )

148

437

. Chuyển giao nhanh và ứng dụng các tiến bộ khoa học , công nghệ , nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp

ở tỉnh Thái Bình (Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Thái Bình)

156

- Hội nhập kinh tế quốc tế trong giai đoạn hiện nay và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam 163

( Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Thương mại) - Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình , góp phần đưa đất nước nhanh chóng ra khỏi

tình trạng kém phát triển ( Tham luận của đồng chí Lê Thị Thu , Bộ trưởng , Chủ nhiệm Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em, đại biểu Đảng bộ

170

Khối cơ quan khoa giáo Trung ương ) - Quảng Ngãi quyết tâm tạo bước phát triển nhảy vọt về công nghiệp , đưa tỉnh ra khỏi tình trạng kém phát triển , cùng với cả nước thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá ,

hiện đại hoá ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi )

177

- Bảo vệ và cải thiện môi trường vì sự phát triển bền vững

đất nước (Tham luận của đồng chí Phạm Khôi Nguyên , Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Kinh

184

tế Trung ương ) - Phấn đấu đến năm 2010 không còn xã đặc biệt khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ di dân tái định cư Thuỷ điện Sơn La ( Tham luận của đồng chí Thào Xuân Sùng, Bí thư

Tỉnh

uỷ , đại biểu Đảng bộ tỉnh Sơn La )

193

- Giải quyết vấn đề nông nghiệp , nông thôn và nông dân (Tham luận của đồng chí Vũ Ngọc Kỳ , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Đảng đoàn , Chủ tịch Trung ương Hội Nông dân Việt Nam , đại biểu Đảng bộ

Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

438

202

- Nông dân , nông nghiệp , nông thôn - Hiện trạng và tiềm năng ( Tham luận của đồng chí Bùi Chí Bửu , Viện trưởng Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, đại biểu Đảng bộ thành phố

Cần Thơ )

209

Một số vấn đề về chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước và việc thực hiện chính sách tôn giáo trong 5 năm qua (Tham luận của Ban Tôn giáo Chính phủ )

218

. Thực hiện tốt chính sách đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong sự nghiệp đổi mới ( Tham luận của đồng chí Hồ Xuân Mãn , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Tỉnh ủy Thừa ThiênHuế, đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế )

227

· Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng , cơ sở phát huy khối đại đoàn kết toàn dân trong việc đưa Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X vào cuộc sống , xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Tham luận của đồng chí Tráng A Pao , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Uỷ viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, đại biểu Đảng bộ tỉnh Lào Cai)

235

- Chăm lo phát triển kinh tế , nâng cao đời sống vật chất, tinh thần trong đồng bào dân tộc Khơme ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng )

241

· Tăng cường đoàn kết các dân tộc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc (Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Đắc Lắc)

249

· - Một số vấn đề về nhiệm vụ quân sự , quốc phòng trong

nhiệm kỳ tới ( Tham luận của đồng chí Phùng Quang Thanh , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Thượng tướng , Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam , Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đại biểu Đảng bộ Quân đội )

257

439

Nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia , giữ gìn trật tự an toàn xã hội trong tình hình hiện nay ( Tham

luận của đồng chí Lê Hồng Anh, Uỷ viên Bộ Chính

trị khoá IX , Bộ trưởng Bộ Công an, đại biểu Đảng bộ Công 263

an Trung ương ) - Phát huy cao độ nội lực , ra sức khai thác ngoại lực , kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại , tạo sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước (Tham luận của đồng chí Nguyễn Dy Niên , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Ban cán sự Đảng , Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Đối ngoại Trung ương và các đảng bộ ngoài nước )

272

Nâng cao hiệu quả công tác phòng , chống tham nhũng để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng (Tham luận của đồng chí Nguyễn Tuấn Khanh , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bí thư Đảng uỷ khối Nội chính Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Nội

chính Trung ương ) - Động viên người Việt Nam

280 ở nước ngoài hướng về Tổ quốc ,

tích cực góp phần xây dựng đất nước (Tham luận của Uỷ ban Về người Việt Nam ở nước ngoài )

288

- Lạng Sơn góp phần xây dựng biên giới hoà bình , ổn định và

phát triển (Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Lạng Sơn )

294

- Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng (Tham

luận của đồng chí Trương Đình Tuyển , Uỷ viên Ban

Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Thương mại, đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình )

300

Một số ý kiến về chủ đề Đại hội X và vấn đề xây dựng đạo đức cách mạng của cán bộ , đảng viên ( Tham luận của đồng chí Nguyễn Đình Bin, Đại sứ nước ta tại Cộng hoà Pháp , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Đối ngoại Trung ương và Đảng bộ ngoài nước )

440

306

Tình hình và một số giải pháp về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Nghệ An)

312

Những vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân ở doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Tham luận của đồng chí Trần Đình Thành , Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Nai, Đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai )

318

- Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ , có cơ cấu hợp lý, có chất

lượng tốt để đáp ứng yêu cầu đổi mới (Tham luận của đồng chí Phùng Hữu Phú , Uỷ viên Ban Chấp hành

Trung ương khoá IX , Phó Bí thư Thường trực

Thành uỷ Hà Nội, đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội )

328

· Một số ý kiến về đạo đức , lối sống của cán bộ , đảng viên hiện nay ( Tham luận của đồng chí Vũ Quốc Hùng , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Trưởng bộ phận Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương 6 (lần 2 ), đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ )

334

· - Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thật sự trong sạch , vững mạnh , nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Ninh Bình)

341

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân , do dân , vì dân là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới (Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp )

352

- Đổi mới tổ chức bộ máy và chế độ , chính sách đối với cán bộ , công chức hệ thống chính trị ở cơ sở xã , phường , thị trấn ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Long An)

360

- Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở , phát huy vai trò của các cơ quan dân cử trong việc giám sát cán bộ , công chức ( Tham luận của Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định)

367

441 .

Xây dựng đội ngũ cán bộ, viên chức đáp ứng yêu cầu hội

nhập (Tham luận của Ban cán sự đảng Bộ Nội vụ )

374

- Các biện pháp cơ bản để thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính (Tham luận của đồng chí Đỗ Quang Trung , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đại

biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh )

382

- Tăng cường mối quan hệ hữu cơ giữa Đảng , Nhà nước , Mặt trận và các đoàn thể nhân dân , tạo cơ sở để thực hiện tốt quyền làm chủ của nhân dân ( Tham luận của Đồng chí Vũ Trọng Kim , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Phó trưởng ban Thường trực Ban Dân vận Trung ương , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

389

. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

nhân dân trong giai đoạn mới ( Tham luận của đồng chí Phạm Thế Duyệt , Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

397

- Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh xứng đáng là giai cấp tiên phong , lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước ( Tham luận của đồng chí Cù Thị Hậu , Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương khoá IX , Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận

Trung ương ) · Quan tâm hơn nữa việc thực hiện bình đẳng giới , tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia các hoạt động quản lý nhà nước và xã hội ( Tham

442

luận của đồng chí Hà Thị Khiết, Uỷ viên Ban Chấp

404

hành Trung ương khoá IX , Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam , Chủ tịch Uỷ ban quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

412

Vai trò của cựu chiến binh trong việc giáo dục truyền thống yêu nước , chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ ( Tham luận của đồng chí Trần Hanh , Phó Chủ tịch, Phó Tổng thư ký Hội Cựu chiến binh Việt Nam )

420

- Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên ( Tham luận của đồng chí Đào Ngọc Dung, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh , đại biểu Đảng bộ Khối cơ quan Dân vận Trung ương )

426

443

UNIVERSITY OF MICHIGAN

3 9015 06314 8400

Chịu trách nhiệm xuất bản TRỊNH THÚC HUỲNH Chịu trách nhiệm nội dung TS . LÊ MINH NGHĨA Biên tập nội dung :

NGUYỄN VĂN TRỌNG NGUYỄN ĐÌNH THỰC NGUYỄN THANH BÌNH

NGUYỄN KIM THANH

LÊ THỊ VỤ TRẦN TRUNG THÀNH ĐỖ THANH HOÀNG NGUYỄN QUỲNH NGA NGUYỄN MINH HƯỜNG

VŨ PHƯƠNG HÀ Trình bày bìa :

PHƯƠNG MAI

Chế bản vi tính :

NGUYỄN THỊ HẰNG

Sửa bản in :

BAN SÁCH LÝ LUẬN

Đọc sách mẫu :

BAN SÁCH LÝ LUẬN

In 1.500 bản , khổ 16 x 24 cm , tại Công ty In & Văn hóa phẩm . Giấy phép xuất bản số : 159-2006 / CXB /45-474 /CTQG .

In xong và nộp lưu chiểu tháng 7 năm 2006 .

Giá : 42. 000 ₫