Quốc Âm Thi Tập

Citation preview

VIỆN VIỆT-HỌC

NGUYỄN TRÃI QUỐC ÂM THI TẬP TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN KHOA SAIGON BAN VĂN CHƯƠNG QUỐC ÂM TÀI LIỆU SỐ 1 TRẦN VĂN GIÁP & PHẠM TRỌNG ĐIỀM phiên âm Lê Văn Đặng soạn Bản Điện Tử LỜI NÓI ĐẦU Quốc Âm Thi Tập của Nguyễn-Trãi, nguyên bản bằng chữ nôm trong Úc Trai Tập, quyển VII, số hiệu A. 68 hiện lưu trử tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Hà nội và Thư viện Quốc gia Paris. Phòng nghiên cứu hiện có 1 bộ Ức Trai Tập bằng vi điện ảnh và đã cho in ra thành ảnh hiện lưu trử tại Thư viện của Phòng. Ức Trai Tập (hay Ức Trai Di Tập) do các bậc danh nho biên soạn từ đời Minh-Mạng và đến năm TựĐức thứ 21 (1868 Mùa Thu năm Mậu Thìn) mới đem in và xuất bản. Trước đây, vào năm Hồng-Đức thứ II (1480) một bậc tiền nho là Trần-khắc-Kiệm đã biên soạn thi văn của Nguyễn-Trãi theo ý của vua Lêthánh-Tôn, thu góp lại trong bộ "Ức Trai Di Tập" nhưng toàn bộ này không được lưu truyền đến nay. Vì thế, tài liệu cổ nhất mà chúng ta hiện có về thi văn Nguyễn-Trãi là bộ Ức Trai Tập số hiệu A. 68 nói trên. Bộ sách này gồm có 7 quyển : Quyển thứ nhất :

Thi Tập

Quyển thứ hai

:

Nguyễn-phi-Khanh Thi Văn Tập

Quyển thứ ba

:

Văn Tập

Quyển thứ tư

:

Quân Trung Từ Mệnh Tập

Quyển thứ năm :

Truyện Nguyễn-phi-Khanh và các bài chiếu, bài chế

Quyển thứ sáu :

Ức Trai Dư Địa Chí

Quyển thứ bảy :

Quốc Âm Thi Tập

Phòng nghiên cứu hiện đang cho phiên dịch và phiên âm toàn bộ sách này. Bản phiên âm Quốc Âm Thi Tập sau đây là do hai học giả Trần-văn-Giáp và Phạm-trọng-Điềm, nguyên chuyên viên khảo cổ của Trường Bác Cổ Viễn Đông Hà nội phiên âm, và do phòng nghiên cứu sưu tầm được. Trước khi phòng nghiên cứu hoàn thành công việc phiên dịch và phiên âm toàn thể bộ Ức Trai Tập, chúng tôi thiết nghĩ nên phát hành ngay tài liệu này (mặc dù có nhiều chữ nôm xưa mà trong lối phiên âm vẫn cò tồn nghi, nhiều bài thơ vẫn còn nghi vấn vì giống với thơ của Nguyễn-bỉnh-Khiêm), để sinh viên và giáo sư có thể có ngay một tài liệu quí báu để xử dụng trong lối tìm hiểu một thi hào dân tộc từ thế kỷ thứ XV. Huế, tháng VI năm 1961 PHỤ CHÚ VỀ VĂN BẢN Bản phiên Quốc Âm Thi Tập, in Roneo, được lưu trử tại thư viện Suzzallo thuộc Trường Đại Học Washington. Trước 75, bản nầy được dùng làm tài liệu cho Trường Đại Học Văn Khoa Saigon, nhưng để lại khá nhiều lỗi, và chữ dùng không thống nhứt, như: Bui / Vui, trời / giời, trăng / giăng, nghìn / ngàn ... [chúng tôi chỉ giữ lại một cách ghi và không thêm phụ chú về việc nầy] ; dấu ? chỉ chỗ tồn nghi. Những chữ chúng tôi đề nghị thay, nếu cần, có kèm theo chữ Nôm dẫn chứng, được so với nguyên bản chữ Nôm và ghi ở cuối câu để tiện tham khảo. LVĐ.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

1

VIỆN VIỆT-HỌC A- VÔ ĐỀ I- VÔ ĐỀ 1. Thủ vĩ ngâm1 1. Góc thành Nam, lều một gian, No nước uống, thiếu cơm ăn. Con đòi trốn, dễ ai quyến, [ bà]

Bầy2 ngựa gầy, thiếu kẻ chăn. Ao bởi hẹp hòi, khôn thả cá, Nhà quen xuế xoá ngại nuôi vằn. Triều quan chẳng phải, ẩn chẳng phải, Góc thành Nam, lều một gian. PHỤ CHÚ:

1) Thủ vĩ ngâm là một thể thơ theo đó câu cuối [vĩ] lặp lại câu đầu [thủ]; bài thơ nầy không có tên [vô đề]. 2)  bà = bầy CHÚ THÍCH: Theo bài tựa của Trần-khắc-Kiệm đề ở Ức Trai Di tập (ngày3 tháng 2 năm Hồng Đức thứ II (1480), thì bài thơ này là bài Ức-Trai tiên sinh làm, khi bị người Minh bắt giữ trong thành. Chúng thấy tiên sinh là bậc đại tài, muốn dùng làm quan, nhưng biết không thế nào dụ nổi, lại càng kính trọng. Sau vì được bỏ lỏng, tiên sinh tìm kế trốn thoát, rồi đi theo Lê-Lợi ở Lỗi-giang. Bản B 4 trong tập thơ không có bài này, nhưng trái lại trong thiên Lịch , sau khi chép việc tiên sinh khi từ biệt phụ thân Phi Khanh bị quân Minh bắt đi, có chua cả bài, có đôi chữ khác, như sau: Góc thành Nam, lều một căn, No nước uống, thiếu cơm ăn. Con đòi trốn, dễ ai khiến, Bầy ngựa gầy, thiếu kẻ chăn. Ao vợi hẹp hòi, nào dưỡng cá, Nhà quen thuể thoả, ngại nuôi vằn. PHỤ CHÚ: 3) Ngày lành tháng hai năm Canh Tý, Hồng Đức 11 (1480). 4) Tài liệu không ghi bản B là bản nào. II. Ngôn Chí [21 bài] 1 2. Thương, Chu bạn cũ các chư đôi, Sá lánh thân nhàn thủa việc rồi. Gội tục, trà thường pha nước tuyết, Tầm thanh trong vắt tiễn chè mai.

2

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Chim kêu, hoa nở ngày xuân tĩnh, Hương lọn, cờ tàn tiệc khách thôi. Vui có một niềm chăng nỡ trễ, Ðạo làm con mấy đạo làm tôi. 2 3. Lão thiếu chưa nên tiết trượng phu, Miễn là phóng dáng đạo tiên nho. Trà mai đêm nguyệt dậy xem bóng, Phiến sách ngày xuân ngồi chấm câu. Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dầy dãi có phong lưu. Mấy người ngày nọ thi đỗ, Lá ngô đồng thủa mạt thu. 3 4. Am trúc hiên mai ngày tháng qua, Thị phi nào đến cõi yên hà. Bữa ăn dù có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là, Nước dưỡng cho thanh trì thưởng nguyệt, Ðất cày ngõ ải luống ương hoa. Trong khi hứng động bề đêm tuyết, Ngâm được câu thần dửng dửng cả.

[歌 ca] 4

5. Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm, Dơ 5 tay áo, đến tùng lâm. Rừng chiều cây rợp, hoa chày động, Ðường ít người đi, cỏ kíp xâm. Thơ đái tục hiềm câu đái tục, Chủ vô tâm ỷ khách vô tâm. Trúc thông hiên vắng trong khi ấy, Năng mỗ sơn tăng làm bạn ngâm. PHỤ CHÚ: 5) 𢷀包饒蓓蓓淋、襖旦叢林。

 chữ hội âm 

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

3

VIỆN VIỆT-HỌC

5 6. Làm người chẳng có đức cùng tài, Ði, nghỉ đều thì kém hết hai. Hiểm hóc cửa quyền chăng lọt lẫn, Thanh nhàn án sách hãy đeo đai. Dễ hay ruột biển sâu cạn,

 chữ hội ý  ngắn

Khôn biết lòng người ngấn dài. Sự thế dữ, lành ai hỏi đến Bảo rằng ông đã điếc hai tai.

6 7. Trường ốc ba thu uổng mỗ danh, Chẳng tài đâu xứng chức tiên sinh, Cuốc cùn ước tháo vườn chư tử, Thuyền mọn khôn đua biển lục kinh. Án sách, cây đèn, hai bạn cũ, Song mai, hiên trúc, một lòng thanh. Lại mừng nguyên khi vừa thịnh,

[氣 khí]

Còn cạy vì hay một chữ đinh.

[ cậy] 7

8. Ðã mấy thu nay để lề nhà Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha. Một thân lẩn quất đường khoa mục, Hai chữ mơ màng việc quốc gia Tài liệt lạt nhiều, nên kém bạn,

 chữ hình thanh 𤷱 mòn

Người còn mỏi, hết phúc còn ta. Quân thân chưa báo lòng canh cánh, Tình phụ cơm trời áo cha.

8 9. Túi thơ bầu rượu quản tình suông, Quẩy dụng đầm hâm may dặm đường. Ðài Tử Lăng cao, thu mắt,

 chữ hội ý 𠇍 mấy  mượn âm 沫(mạt) mát

Bè Trương Khiên nhẹ, khách sang.

4

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đầu bãi. Hào chất so le, khóm cuối làng. Ngâm sách thằng chài trong thủa ấy. Tiếng trào dậy khắp Thương Lang. 9 10. Sang cùng khó bởi chưng trời Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi. Tả lòng thanh, vị núc nác, Vun đất ải, luống mùng tơi [節 tiết]

Liêm, cần thiết cả tua hằng nắm Trung, hiếu niềm xưa mã nỡ rời. Con cháu chớ hiềm song viết ngặt Thi thư thực ấy báu Ngàn đời.

10 11. Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy, Có thân chớ phải lợi danh vây. Ðêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén, Ngày vắng xem hoa bợ cây Cây cớm chồi cành, chim kết tổ, Ao quang mấu ấu, cá nên bầy. Ít nhiều tiêu sái lòng ngoại thế, Năng một ông này đẹp thú này. 11 12. Cỏ xanh cửa dưỡng để lòng nhân, Trúc rợp hiên mai quét tục trần. Nghiệp cũ thi thư hằng một chức, Duyên xưa hương hỏa tượng ba thân. Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt, Ðổ Phủ thơ nên bút có thần. Nợ quân thân chưa báo được, Hài hoa còn bện dặm thanh vân.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

5

VIỆN VIỆT-HỌC

12 13. Thân nhàn dầu tới, dầu lui, Thua được bằng cờ ai kẻ đôi. Bạn cũ thiếu, ham đèn mấy sách Tính quen chăng ? kiếm trúc cùng mai. Cày gióng tuyết, ngâm đòi cảnh, Cuốc chơi xuân, khắp mọi đồi. Con cháu mã hiềm song viết tiện, [頭 đầu]

Ngàn dầu cam quít ấy là tôi.

13 14. Tà dương bóng ngả thủa hồng lâu, Thế giới đông nên ngọc một bầu Tuyết sóc leo cây điểm phấn, [豸 dãi]

Cõi đông dải nguyệt in câu6. Khói chìm thủy quốc quyến phẳng, Nhạn triện hư không gió thau. Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ, Trời ban tối, ước về đâu? PHỤ CHÚ:

6) Bản Nôm ghi 東豸月印鈎 Quỹ đông trãi nguyệt in câu. 14 15. Vừa sáu mươi dư tám chín thu, Lưng gầy da nẻ, tướng lù khù. Lâm tuyền thanh vắng bạn Sào, Hứa, Lễ nhạc nhàn chơi đạo Khổng, Chu. Bát cơm thoàng, nhờ ơn xã tắc. Gian lều cỏ, đội đức Ðường, Ngu. Tơ hào chẳng có đền ơn chúa, Dạy láng giềng, mấy sĩ nho. 15 16. Am cao, am thấp đặt đòi từng, Khấp khểnh ba làn trở lại bằng.

6

[𠀧 ba làn] Xem 77-3

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Quét trúc, bước qua lòng suối, Thưởng mai, về đạp bóng trăng. Phần du lẽo đẽo thương quê cũ, Tùng cúc bù trì nhớ việc hằng. Một phút thanh nhàn trong thủa ấy, Thiên kim ước đổi được hay chăng? 16 17. Tham nhàn lánh đến giang san, Ngày vắng xem chơi, sách một an. [sẻ] ?

Am rợp chim kêu hoa sẽ động, Song âm hương tạn khói sơ tàn. Mưa thu tưới ba đường cúc Gió xuân đưa một luống lan.

[隐 Ẩn]

Ấn cả lọ chi thành thị nữa, Nào đâu là chẳng đất nhà quan.

17 18. Ðột xung biếng tới áng can qua, Ðịch lều ta, dưỡng tính ta. Song viết hằng lề phên sách cũ [遥 dao]

Hôm chiều đủ bữa bát cơm xoa Ðêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc Ngày vắng chim kêu cuối khóm hoa Quân tử hãy lăm bền chí cũ, Chẳng âu ngặt, chẳng âu già.

18 19. Thương Lang mấy khảm một thuyền câu, Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu? Nguyệt mọc đ ầu non, kình dõi tiếng, Khói tan mặt nước, thận không lầu. Giang sơn dạm dược đồ hai bức,

 mượn âm 特(đặc) được

Thế giới đông nên ngọc một bầu. Ta ắt lòng mừng Văn Chính nữa,

[chính] ?

Vui, xưa chẳng quản đeo âu.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

7

VIỆN VIỆT-HỌC

19 20. Nếu có ăn thì có lo, Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho. Ngày nhàn mở sách xem Chu Dịch, Ðêm vắng tìm mai bạn Lão Bô. Ðã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc, Cho hay đường lợi cực quanh co. Tuồng ni cộc được bề hơn thiệt, Chưa dễ bằng ai đắn máy đo. 20 21. Dấu người đi, là đá mòn, Ðường hoa vắng vẻ trúc luồn. Cửa song dãi, xâm hơi nắng, Tiếng vượn vang kêu, cách non, Cây rợp tán che am mát, Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn. Cò nằm, hạc lặn nên bầy bạn, Ủ ấp cùng ta làm cái con. 21 22. Chẳng hay rắp rắp đã bốn mươi, Ngày tháng bằng thoi một phút cười. Thế sự người no ổi tiết bảy, Nhân tình ai ủ cúc mồng mười. Thuyền chèo đêm nguyệt, sông biếc, Cây đến ngày xuân, lá tươi. Phú quí chẳng tham, thanh tựa nước, Lòng nào vây mỗ hơi hơi. III. MẠN THUẬT [14 bài] 1 23. Ngày tháng kê, khoại những sản hằng,

[󰆈 kê khoai]

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng. Ðạo ta cậy bởi chân non khoẻ,

8

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Lòng thế tin chi mặt nước bằng. Trì cỏ, được câu ngâm gió, Hiên mai, cầm chén hỏi trăng. Thề cùng viên hạc trong hai ấy, Thấy có ai han chớ đãi đằng. 2 24. Ngẫm ngượi sơn lầm mấy thị triều,

[吟𠮾 ngẫm ngột] [ 林 lâm]

Nào đâu là chẳng đất Ðường Nghiêu. Người tham phú quí, người hằng trọng, Ta được thanh nhàn, ta sá yêu. Nô bộc ắt còn hai rặng quít, Thất gia chẳng quản một con lều. Miễn là tiêu sái qua ngày tháng, Lộc được bao nhiêu ăn bấy nhiêu.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-51 3

25. Có mống tự nhiên lại có cây, Sự làm vương vất ắt còn chầy, Thủy chung mỗ vật đều nhờ chúa, Ðộng tĩnh nào ai chẳng bởi thày. Hỉ nộ cương nhu tuy đã có, Nghĩa, nhân, lễ, trí mã cho khuây. Hay văn, hay võ, thời dùng đến, Chẳng đã, khôn ngay, khẻo đầy. 4 26. Ðủng đỉnh chiều hôm dắt tay, Trông thế giới, phút chim bay. Non cao, non thấp, mây thuộc, Cây cứng, cây mềm gió, hay.

[cây mềm, gió hay]

Nước mấy trăm thu còn vậy, Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẵn nay.

[ nhẫn]

Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết, Vui một lòng người cực hiểm thay.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

9

VIỆN VIỆT-HỌC

5 27. Sơn thủy nhàn chơi phận khó khăn, Cửa quyền hiểm hóc ngại chôn chân. Say minh nguyệt, chè ba chén,

迪 Ðịch]

Dịch thanh phong, lều một gian.

[

Ngỏ cửa nho, chờ khách đến, Trồng cây đức, để con ăn. Ðược thua phú quí dầu thiên mạng, Chen chóc làm chi cho nhọc nhằn ?

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-94 6

28. Ðường thông thủa gióng một cày, Sự thế bao nhiêu vuỗn đã khuây. Bẻ cái trúc, hòng phân suối, Quét con am, để chứa mây. Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá, Rừng tiếc chim về ngại phát cây. Dù bụt, dù tiên ai kẻ hỏi, Ông này đã có thú ông này. 7 29. Ở chớ nề hay học cổ nhân, Lánh mình cho khỏi áng phong trần. Chim kêu cá lội yên đòi phận, Câu quạnh cày nhàn dưỡng mỗ thân. Nhà ngặt túi không tiền mẫu tử, Tật nhiều thuốc biết vị quân thần. Ấy còn lẵng đẵng làm chi nữa, Sá tiếc mình chơi áng thủy vân. 8 30. Chân chăng lọt đến cửa vương hầu, Ấy tuổi nào thế đã bạc đầu. Liệu cửa nhà xem bằng quán khách, Ðem công danh đổi lấy cần câu,

10

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Thân đà hết lụy thân nên nhẹ, Bụt ấy là lòng, bụt há cầu. Vui một quân thân, ơn cực nặng. Tơ hào chưa báo hãy còn âu. 9 31. Am quạnh thiêu hương đọc ngũ kinh, Linh đài sạch một đường thanh. Nhà còn thi lễ, âu chi ngặt, Ðời phạp văn chương, uỗng mỗ danh.

[枉 uổng]

Ðầu tiếc đội mòn khăn Ðỗ Phủ, Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh. Chi là của, tiêu ngày tháng ? Thơ một hai thiên, rượu một bình. 10 32. [ bào]

Tưởng thân hư ảo nổi bằng hài, Chí cũ công danh, uốn lưỡi dao. Viện có hoa tàn chăng quét đất, Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo. Lòng người tựa mặt, ai ai khác, Sự thế bằng cờ, bước bước nghèo. Không hết kể chi tay trí thuật, Ðể đòi khi ngã, mất khi yêu.

11 33. Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân, Lẳng thẳng chưa lìa lưới trần. Ở thế những hiềm qua mỗ thế, Có thân thì sá cộc chưng thân. Vườn còn, thông trúc đáng năm mẫu, Câu ước, công danh đổi một cần. Miệt bẻ, hài gai, khăn cóc, Thênh thang làm mỗ đứa thôn dân.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

11

VIỆN VIỆT-HỌC

12 34. Trường văn nằm ngả mấy thu dư, Uổng tốn công, nhàn biện lỗ, ngư. Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ, Có lòng bằng trúc mỗ nên hư. Yên từ nẻo lạc nhà Vương, Tạ, Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư. Chỉn sá lui mà thủ phận, Lại tu thân khác, mức thi thư. 13 35. Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao. Cách song, mai tỉnh hồn Cô-dịch, Kề nước, cầm đưa tiếng Cửu-cao. Khách đến, vườn còn hoa lác, Thơ nên, cửa thấy nguyệt vào. Cảnh thanh nhường ấy chăng về nghỉ ? Lẩn thẩn làm chi áng mận đào. 14 36. Án tuyết mười thu uổng độc thư, Kẻo còn lọt đọt chữ Tương Như. Nước non kẻ khắp quê “hà hữu”,

[計 kể]

Sự nghiệp nhàn khoe phú “tử hư”. Con mắt hào7 xanh đầu dễ bạc,

[hoà]

Lưng khôn uốn, lộc nên từ. Ai ai đều đã bằng câu hết, Nước chẳng còn có Sử Ngư. PHỤ CHÚ: 7) Bản Nôm viết nhiều nét chồng lên nhau

12

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

IV. TRẦN TÌNH [9 bài] 1 37. Từ ngày gặp hội phong vân, Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân. Gánh, khôn đương quyền tướng phủ, Lui, ngõ được đất nho thần, Ước bề báo ơn minh chúa, Hết khoẻ phù đạo thanh nhân. Quốc phú binh cường chăng có chước, Bằng tôi nào thửa ích chưng dân. 2 38. Vàng bạc nhà chăng có mỗ phân, Lánh đời cơm hẩm được no ăn. Lọn thủa đông, hằng nhờ bếp, Suốt mùa hè, kẻo đắp chăn. Ác thỏ tựa thoi, xem lặn mọc, Cuốc cày là thú, những bon chân. Cậy trời còn có bấy nhiêu nữa, Chi tuổi chăng hiềm kẻ khó khăn.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-61 3

39. Vầu làm chèo, trúc làm nhà, Ðược thú vui, ngày tháng qua. Cơm kẻ bất nhân, ăn, ấy8 chớ... Áo người vô nghĩa, mặc, chăng thà... Ngôi triều quan, mấy hay ơn chúa,

[買(mãi) mới]

Sinh được con thì cảm đức cha. Mừng thủa thái bình yêu hết tấc, No lòng tự tại quản chi là. PHỤ CHÚ: 8) ấy:

 mượn âm chữ 倚 / 𠋣(ỷ) [ỷ → ấy] 4

40. Lồng lộng trời, tư9 chút đâu,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

13

VIỆN VIỆT-HỌC

Nào ai chẳng đội ở trên đầu. [雲 vân]

Song cửa ngọc, vận yên cách, Dãi lòng đan, nhật nguyệt thâu. Chim đến cây cao, chim nghĩ đỗ, Quạt hay thu lạnh, quạt sơ thu. Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế,

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-59

Át đã tròn bằng nước ở bầu.

 mượn âm 乙(ất) Ắt

PHỤ CHÚ: 9) Có thể đọc toàn âm Nôm: Lồng lộng trời, riêng chút đâu [“riêng” đọc nghĩa chữ 私 (tư)] 5 41. Con cờ quẩy, rượu đầy bầu, Ðòi nước non, chơi quản dầu. Ðạp áng mây, ôm bó củi, Ngồi bên suối, gác cần câu. Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc, Danh lợi lòng nào ước chuốc cầu. Vương Chất tình cờ ta ướm hỏi, Lào phới phới thấy tiên đâu? 6 42. Chèo lan nhàn bát thủa tà dương, Một phút qua [ ] một lạ dường.10 Ngàn nọ so miền Thái Thạch, Làng kia mở cảnh Tiêu Tương. Hàng chim ngủ, khi thuyền đỗ, Vừng nguyệt lên thủa nước cường. Mua được thú mầu trong thủa ấy, Thế gian hay một khách văn chương. PHỤ CHÚ: 10) Bản Nôm in thiếu một chữ: 𤼵戈邏。Một phút qua [ ] một lạ dường. 7 43. Chén chăng lọ thuốc rượu La Phù,

[祝 chuốc]

Khách đến ngâm chơi, miễn có câu. Lòng một tấc son, còn nhớ chúa,

14

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Tóc hai phần bạc, bởi thương thu. Khó bền, mới phải người quân tử, Mạnh gắng, thì nên kẻ trượng phu. Cày ruộng, cuốc vườn dầu hết khoẻ, Tôi Ðường Ngu ở đất Ðường Ngu. 8 44. Chớ cậy sang mà ép nề, Lời chẳng phải vưõn khôn nghe. [抅䂓 Co que]

Quanh co thế bấy, ruột ốc, 11

Khúc khuỷu làm chi, lái hoè . Hai chữ công danh chăng cảm cộc, Một trường ân oán những hằm hè. Làm người mã cậy khi quyền thế, Có thủa bàn cờ tốt đuổi xe. PHỤ CHÚ: 11) Có bản phiên “trái hoè”: 抅䂓世閉𦛌沃、曲考之𢁑槐。 Co que thế bấy, ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi, trái hoè. 9 45. Bảy tám mươi bằng một bát tay, Người sinh ở thế mỗ nhàn thay. Lan-đình tiệc họp, mây huyễn, Kim-cốc vườn hoang, dế cày. Nhật nguyệt soi, đòi chốn hiện, Ðông hè trải, đã xưa thay. Ta còn lẳng đẳng làm chi nữa, Tượng có trời bày đặt vay. V. THUẬT HỨNG [25 bài] 1 46. Trúc mai bạn cũ họp nhau quen, Cửa mận tường đào chân ngại chen. Chơi nước chơi non đeo tích cũ, Qua ngày qua tháng dưỡng thân nhàn.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

15

VIỆN VIỆT-HỌC

Thời nghèo sự biến nhiều bằng tóc, Nhà ngặt, quan thanh lạnh nữa đèn. Mùi thế đắng cay cùng mặn chát, Ít nhiều đà vẻ một hai phen. 2 47. Có thân thì cộc khá làm sao, Lửng vửng công hư tuổi tác nào. Người ảo hoá khoe thân ảo hoá, Thủa chiêm bao thốt sự chiêm bao. Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm. Ðường thế nào nơi chẳng thấp cao. Ai rằng mai hoa thanh hết tấc, Lại chăng được phép khúc Ly tao. 3 48. Một cày, một cuốc thú nhà quê, Áng cúc lan chen vãi đậu kê. Khách đến chim mừng hoa xẩy động, Chè tiên nước kín nguyệt đeo về. [浪 rằng]

Bá-Di người rặng thanh là thú, Nhan-tử ta xem ngặt ấy lề. Kệ tiếng dữ lành tai quản lấp, Cầu ai khen, mấy lệ ai chê?

4 49. Văn này ngâm thấy mỗ thôn viên, Thương hải hay khô thiết thạch mòn. Chí cũ ta liều nhiều sự hóc, Người xưa, lại chép thấy ai còn. Nguyệt xuyên, há dễ thâu lòng trúc. Nước chảy, âu khôn siết bóng non. Song viết lại toan nào của tích, Bạc mại vàng cúc để cho con.

16

[梅 mai]

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

5 50. Ðến trường đào mận ngạt chẳng thông, Chúa cũ ưa làm chúa cúc thông. Sầu nặng Thiếu-lăng biên đã bạc, Hứng nhiều Bắc-hải chén chưa không. Mai chăng bẻ, thương cành ngọc, Trúc nhặt vun, tiếc chiéu rồng. Vui một tấc lòng ưu ái cũ, Ðêm ngày cuồn cuộn nước triều đông. 6 51. Cảnh cũ non quê nhát chốc mồng, Chiêm bao ngờ đã đến trong. Trà tiên, nước kín, bầu in nguyệt, Mai rụng, hoa đeo, bóng cách song. Gió nhặt đưa qua trúc ổ, Mây tuồn phủ rợp thư phòng. Thức nằm nghĩ ngợi còn mường tượng, Lá, chưa ai quét cửa thông. 7 52. Con lều mòn mọn đẹp sao, Trần thế chăng cho bén mỗ hào. Khách lạ đến ngàn hoa chưa rụng, Câu màu ngâm, dạ nguyệt càng cao. Những màng lẩn quất vườn lan cúc, [乙 Ắt]

Át ngại lanh tranh áng mận đào. Ngựa ngựa, xe xe la ỷ tốt, Dập dìu là ấy chiêm bao.

8 53. Hễ kẻ làm quan đã có duyên, Tới lui mặc phận tự nhiên. Thân xưa hương hoả chăng còn ước, Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

17

VIỆN VIỆT-HỌC

Trẻ12 hoà sang, ấy phúc, Già được trọn, là tiên. Cho về, cho ở đều ơn chúa, TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-56

Lọ phải bon chen đến cửa quyền. PHỤ CHÚ: 12) QÂTT có ba chữ đọc "trẻ":

𥘷

53-5 ; 󰇬 78-5 ;  ? 104-6. 9

54. Cột cây là đá lấy làm nhà, Lân các ai hầu mạc đến ta. Non lạ, nước thanh làm náu13, Ðất phàm, cõi tục cách xa. Thiên-thai hái thuốc, duyên gặp, Vị-thủy gieo câu tuổi già. Cốt lạnh, hồn thanh chăng khứng hoá, Âu còn nhớ chúa cùng cha. PHỤ CHÚ: 13) Bản Nôm viết chữ 鬪 (đấu) thay vì chữ 鬧 (náo, náu) ; âm Nôm phải là :

 [mượn âm] 鬪 (đấu) dấu 10

55. Kim-cốc phong lưu, nữa để hoang, Hôm mai uổng chịu nhục toan đang. Giàu mấy kiếp, tham lam bấy, Sống bao lâu, đáo để màng. La ỷ dập dìu, hàng chợ họp, Chấm câu : rịn, tổ

Cửa nhà bịn rịn tổ ong tàng. Thiên thơ, án sách qua ngày tháng, Một khắc cầm nên mấy lạng vàng.

11 56. Ruộng đôi ba khảm, đất con ong, Ðầy tớ cười cày kẻo muộn mùng. Sự có cầu người, nên lé mặt, Phận tuy rằng khó, miễn yên lòng. Thu êm, cửa trúc, mây phủ,

18

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Xuân tĩnh, đường hoa, gấm phong. Ai có cửa thông phòng thết khách,



Một ao niềng niễng mấy đòng đong.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-57

chữ hình thanh

𧵑 của

12 57. Nhà ngặt bằng ta, ai kẻ vì, Khó khăn phải lụy đến thê nhi. Ðắc thời, thân thích chen chân đến, Thất sở, láng giềng ngảnh mặt đi. [󰄕 Lều]

Lu tiện, Nhan Uyên tìm tới đỗ, Ðường cùng, Nguyễn Tịch khóc làm chi. Thư song vắng vẻ nhàn vô sự, Tai chẳng còn nghe tiếng thị phi.

13 58. Buồng văn khép cửa lọn ngày thu, Ðèn sách nhàn làm song viết nho. Thua được, toan chi cơ Hán Sở, Nên chăng, đành lẽ kiện Thương Chu. Say mùi đạo, trà ba chén, Tả lòng phiền, thơ bốn câu. Khó, miễn vui, chăng thửa trách, Vì chưng đời có chúa Ðường, Ngu. 14 59. [𧗱 về]

Am quê vè ở dưỡng nhàn chơi, Yên phận, yên lòng kẻo tiếng hơi. Ta quản tiêu dao, qua mỗ thế, Ai từng phú quí mấy trăm đời ? Thân nhàn đến chốn dầu tự tại, Xuân muộn, nào hoa chẳng rụng rời. Nhẫn thấy Ngu-công tua sá hỏi : Non từ nay má tốn công dời.

[馬 mã] 15

60. Ngại ở nhân gian lưới trần,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

19

VIỆN VIỆT-HỌC

Thời nằm thôn dã, miễn yên thân. Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử, Viên hạc đà quen bạn dật dân. Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn. Ðàn cầm suối, trong tai dõi, Còn một non xanh là cố nhân. 16 61. Già chơi dầu có của no dùng, Chén rượu câu thơ ấy hứng nùng. Ngủ đành hanh nằm cửa trúc, Say lểo đểu đứng đường thông. Làm quan thơ dại tài chăng đủ, Về ở thanh nhàn hẹn đã nung14. Dăng dẳng người rằng chuông ấy thạch, Ðóng, thời cũng có tiếng “coong coong”. PHỤ CHÚ: 14) 烘 (hồng) nung; chữ GIẢ TÁ

 mượn nghĩa. 17

62. [西 tây]

Thân nhàn dạo khắp tày đông, Ðường tới mười thu khỏi bụi hồng. Dịp, huyện hoa còn quến khách, Rày, biên tuyết đã nên ông. Ðành hay thương hải đòi thời biến, Ðà biết nhân gian mọi sự không. Chẳng phạp giang hồ nơi vắng vẻ, Cảnh thanh lọ ước cảnh non Bồng.

18 63. Phú quí bao nhiêu người thế gian, Mơ mơ bằng thủa giấc Hoè-an. Danh thơm, một áng mây nổi, Bạn cũ, ba thu lá tàn. Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt,

20

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Thề xưa, hổ có giang san. Ấy còn cậy cục làm chi nữa, Nếu cốt chưa nòng chẩm chửa toan. 19 64. [站(trạm) chụm

Chiếm15 tự nhiên một thảo am,

?]

Dầu lòng đi bắc mấy về nam. Trường thiền định, hùm nằm chực, Trái thì trai vượn nhọc đem. Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam. Tào-khê rửa, ngàn tầm suối, Sạch chẳng còn một phút phàm. PHỤ CHÚ: 15) QÂTT có tám chữ bản phiên ghi "chiếm", viết bốn dạng khác nhau: 2 dạng 2 dạng

 hình thanh 𥿕 , 𥱱;  mượn âm 站(trạm) ,占 (chiêm)

站(trạm) 64-1 ; 𥿕

102-1, 105-2; 𥱱 125-41; 占 (chiêm) 81-7,8; 212-4; 226-3; 247-1 20

65. Non Phú-xuân cao nước Vị thanh, Mây quen nguyệt, khách vô tình. Ðất thiên-tử dưỡng tôi thiên-tử, Ðời thái bình ca khúc thái bình. Cơm áo khôn đền Nghiêu Thuấn trị, Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh. Rày mừng thiên hạ hai của, Tể tướng hiền tài chúa thánh minh. 21 66. Khó khăn thì mặc, có màng bao, Càng khó bao nhiêu chí mấy hào. Ðại địa dầy, Nam-nhạc khoẻ, Cửu tiêu vắng, Bắc thần cao. Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh, Chứa thủa khô khao có thủa dào.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

21

VIỆN VIỆT-HỌC

Kìa nếu Tô Tần ngày trước, TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-47

Chưa đeo tướng ấn có ai chào!

22 67. Chiếm tự nhiên một tấm lều, Qua ngày tháng, lấy đâu nhiều. Gió tiễn rèm, thay chổi quét, Trăng kề cửa, kẻo đèn khêu. Cơn ăn chẳng quản dưa muối, Áo mặc nài chi gấm thêu. Tựa gốc cây, ngồi hóng mát, Đìu hiu ta hãy một đìu hiu16.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-73

PHỤ CHÚ: 16) Bản Nôm viết “󰄕 lều hiu”; NVS đọc "leo heo". QATT-67: NBK-73:

𢭸核𡎢烘𠖾、 Tựa cội cây ngồi hóng mát, 󰄕囂些矣󰄕囂。 Lều hiu ta hãy một lều hiu . 條些咳條。 Đìu hiu ta hãy một đìu hiu . 23

68. Bình sinh nhiễm được tật sơ cuồng, Con cháu chiều ngày chịu khó dương. La, ỷ lấy đâu, chăng lướt thướt, Hùng, ngư khôn kiếm, phải thèm thuồng. Ao quan, thả gửi hai bè muống, Ðất Bụt, ương nhờ một luống mùng. Còn có một lòng âu việc nước, Ðêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung. 24 69. Công danh đã được hợp về nhàn, Lành dữ âu chi thế ngợi khen. Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen. Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc, Thuyền chở yên hà năng với then.

[ nặng]

Vui có một lòng trung mấy hiếu,

22

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen. 25 70. Lánh trần, náu thú sơn lâm, Lá thông đàn, tiếng trúc cầm. Sách cũ, ngày tìm người hữu đạo, Trì thanh, đêm quến, nguyệt vô tâm. Say, hết tấc lòng hồng hộc, [今 câm/kim]

Hỏi, làm chi sự cổ cầm. Thế sự, dầu ai hay buộc bện, Sen nào có bén cùng lầm !

VI. TỰ THÁN (41 bài) 1 71. Càng một ngày càng nhặt đến xương, Ắt vì số mệnh, ắt văn chương. Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu, Kẻ hãy bằng quì hướng thái-dương. Trà thủa tiên, thời mình kín nước, Cầm khi đàn, khiến thiếp thiêu hương. Non quê này ngọ chiêm bao thấy, Viên, hạc, chăng hờn, lại những thương. 2 72. Non hoang tranh vẽ chập hai ngàn... Nước mấy dòng thanh, ngọc mấy hàn. Niềm cũ sinh linh, đeo ắt nặng17, Cật trưng hồ hải, đặt chư an. Những vì chúa thánh âu đời trị, Há kể thân nhàn, tiếc tuổi tàn. Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt, Túi thơ chứa hết mọi giang san. PHỤ CHÚ: 17) Chấm câu: Niềm cũ, sinh linh đeo ắt nặng ...

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

23

VIỆN VIỆT-HỌC

3 73. Dương trường đường hiểm khúc cong queo18, Quê chợ bao nhiêu khách để xe. Phú quí liều19, sương ngọn cỏ, Công danh gửi, kiến cành hoè. Phong lưu mòn mỏi ba đường cúc, Ngày tháng tiêu ma một bát chè. Chân chạy, cánh bay ai mỗ phận; Thiên công nào có thửa tư che. PHỤ CHÚ: 18) co que: 規 19) treo:  4 74. Non nước cùng ta đã có duyên, Ðược nhàn sá dưỡng tính tự nhiên. Trường-canh hỏi nguyệt tay dừng chén, Pha-lão chơi thu khách nổi thuyền. Lòng chẳng mắc tham là của báu, Người mà hết lụy ấy thần tiên. Vua Nghiêu, Thuấn, dân Nghiêu, Thuấn, Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền. 5 75. Thiếu niên trường ốc tiếng hư bay, Phải lụy vì danh đã hổ thay. Đám cúc, thông quen vầy bầu bạn, Cửa quyền quí ngại lượm chân tay. Qua đòi cảnh, chép câu đòi cảnh, Nhàn một ngày, nên quyển một ngày. Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc, Ý còn bừu rịn lấy chi vay. 6 76. Ở thế, thường hiềm khác tục ngươi,

24

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Ðến đây rằng hết tiếng chê cười. Kể ngày con nước tính triều lạc, Vị chúng thằng chài chác cá tươi. Rượu đối cầm, dâm thơ một thủ,

[ đâm]

Ta cùng bóng mấy nguyệt bá người.

[巴 ba]

Tai thường phỏng dạng câu ai đọc, "Ít20 nhân sinh bảy tám mươi". PHỤ CHÚ: 20) Bản Nôm chép 室 (thất); đọc "ít" khó chấp nhận, có thể là lỗi Typo chăng ? 7 77. Giầu chẳng gặp, khó còn mừng, Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng. [𤂬 làn suối] Xem 16-2

Dò trúc, xông qua làn suối, Tìm mai, theo đạp bóng trăng. Giang sơn bát ngát kìa quê cũ, Tùng cúc bù trì ấy của hằng. Một phút thanh nhàn trong thủa ấy, Ngàn vàng ước đổi được hay chăng.

8 78. Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình, Nài bao ngôi cả áng công danh. Vô tâm, trì có trăng bạc, Ðắc ý, kho đầy gió thanh21. Trẻ22, dầu chơi con tạo hoá, [ lọ]

Già, nọ phục thuốc trường sinh. Dưỡng nhàn miễn được qua ngày tháng, Non nước còn ghe chốn hữu tình.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-91

PHỤ CHÚ: 21) Bản Nôm chép: 得趣庫󰐗清 Ðược thú, kho đầy gió thanh. 22) Xem b. 53-5 9 79. Nắng quáng, thưa thưa bóng trúc che, Cây im, thưa thớt sáng bằng the.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

25

VIỆN VIỆT-HỌC

Tỏ tường phiến sách con Chu Dịch, Bàn bạc lòng nhàn cái quất chè. Ðời thủa khó khăn chăng chút ngại, Thấy nơi xao xác đã mày nề. Ngày nhàn, gió khoan khoan đến, Sàn sạt cài song giấc hoè. 10 80. Tơ tóc chưa hề báo sở sinh, Già hoà cũ, tủi nhiều hàng. Chông gai, nhẹ đường danh lợi, Mặn lạt, no mùi thế tình. Sách một hai phiến làm bầu bạn, Rượu năm ba chén đổi công danh. Ngoài chưng phận ấy cầu đâu nữa : Cầu một, ngồi coi đời thái bình. 11 81. Con lều mòn mọn cách hồng trần, Vướng vất tư mùa những bạn thân. Trúc Tưởng Hủ, nên thêm tiết cứng; Mai Lâm Bô đâm được câu thần. Trượng phu, non vắng là tri kỷ, Tiên khách, nguồn êm ấy cố nhân. Mấy của yêu đương đà chiếm được, Lại mong chiếm cả hết hoà xuân. 12 82. Lọ chi tiên, bụt nhọc tầm phương, Ðược thú an nhàn, ngày tháng trường. Song có hoa mai, trì có nguyệt, Án còn phiến sách, triện còn hương. Tôi ngươi một tiết bền bằng đá, Biên tóc mười phần chịu những sương. Chữ học ngày xưa quên hết dạng; Chẳng quên, có một chữ "cương thường".

26

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

13 83. Phú quí lòng, hơn phú quí danh. Thân hoà tự tại, thú hoà thanh. Tiền sen tích để bao nhiêu thúng, Vàng cúc đem cho biết mấy bình. Ngoài cửa mận đào là khách đỗ; Trong nhà cam quít ấy tôi mình. Ai hay, ai chẳng, hay thì chớ, Vui một ta khen ta hữu tình. 14 84. Lều nhàn, vô sự; ấy lâu đài, Nằm, ở, chẳng từng khuất nhiễu ai. Tuyết đượm trà mai, câu dễ động, Trì in bóng nguyệt, hứng thêm dài. Quyển Thi Thư những mang quen mặt, Tiếng thị phi chẳng đụng đến tai. Chẳng thấy phồn hoa trong thủa nọ: Ít nhiều gửi kiến cành hoè. 15 85. Lòng người man xúc nhọc đua hơi; Chẳng cộc nhân sinh gửi chơi. Thoi nhật nguyệt đưa qua mỗ phút, Áng phồn hoa họp mấy trăm đời. Hoa càng khoe tốt, tốt thời rữa, Nước chớ có đầy, đầy ắt vơi. Mới biết doanh hư đà có số, TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-52

Ai mà cãi được lòng trời.

16 86. Chước toan chưa đẹp nẻo bình sinh, Ðến thủa già lại trách mình. Khổ trúc chăng ưa lòng khách bạc, Lão mai sá học nết người thanh.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

27

VIỆN VIỆT-HỌC

Công danh lỡ đường vô sự, [ ghe]

Non nước ghi chốn hữu tình. Nào của cởi buồn trong thủa ấy: Có thơ đầy túi, rượu đầy bình.

17 87. Ngẫm hay múi đạo cực chưng ngon, Ngàn kiếp dù ăn vuỗn hãy còn. Nhật nguyệt dễ qua bên sáng, Cương thường khôn biến tấc son. Chĩnh vàng chẳng tiếc, danh thì tiếc, Bia đá hay mòn, nghĩa chẳng mòn.

[羅 la]

Giữ khăng khăng ai nỡ phụ, Phù trì mạ khá để thon von. 18 88. Lân la mến cảnh sơn khê, Sự thế nên vong hết mọi bề. Ngòi, thửa triều cường chờ nguyệt mọc, Cây, khi ác lặn rước chim về. Giàu mặc phận, nguôi lòng ước, Chật yên bần ấy cổ lề. Ắt muốn đến chơi thành thị nữa, Âu là non nước nó đàn chê. 19 89. Tài tuy chẳng ngỏ trí chẳng cao, Quyền đến trong tay chí mới hào. Miệng khiến tửu binh phá lũy khúc, Mình làm thi tướng đánh đàn tao. Cầm khua hết ngựa, cờ khua tượng, Chim bắt trong rừng, cá bắt ao. Còn có anh hùng bao nả nữa, Ðòi thời vậy, dễ hơn nào.

28

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

20 90. Thế những cười ta rằng đánh thơ, Dại hoà vụng nết lừ khừ. Lừa tìm ngàn bá như mai bảo; Thuyền nổi dòng thu có nguyệt đưa. Ngoài cửa mừng người dầu cái vẹt, Trong nhà thết khách mặc con cờ. Áo đành một tấm, cơm hai bửa,

[bữa]

Phận ấy chưng ta đã có thừa. 21 91. Làm người hay một hoạ hay hai, Mã cậy sang mã cậy tài. Tiết trực cho bằng đá, sắt, Ðường đi sá tránh chông gai. Miệng người tựa mật, mùi qua ngọt, Ðạo thánh bằng tơ, mối hãy dài. Ngõ dốc23 nhượng khiêm là mỹ đức. TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-65

Ðôi co ai dễ kém chi ai. PHỤ CHÚ: 23) Bản Nôm chép 午沃 (ngõ ốc)

22 92. Ðương cơ ai kẻ khứng nhường ai, Thua, được tình cờ có một mai. Gạch quẳng nào bày mấy ngọc, Sừng hằng những mọc qua tai. Làm lành mới cậy chớ làm dữ, Có đức thì hơn nữa có tài. Mấy kẻ tư văn người đất Việt, Ðạo này nối nắm để cho dài. 23 93. Nẻo xưa nay cũng một đường, Ðây xong xóc nẻo tam cương.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

29

VIỆN VIỆT-HỌC

Đạo này để trong trời đất, Nghĩa ấy bền chưng đá vàng. Gió kíp hay là cỏ cứng, Ðục nhiều dễ biết đường quang. Tôi người thì một lòng trung hiếu,

[󰕘 ngươi]

Mạ để ngàn đời tiếng hổ han. PHỤ CHÚ: 24) Bản Nôm chép:



hang, han. 24

94. Ngồi thừ tháng trọn mấy ngày qua, Luống phụ triều đình, luống phụ nhà. Ðầu kết lăng căng những hổ, Thân nhà lục cục mỗ già. Giang sơn cách đường ngàn dặm, Sự nghiệp, buồn đêm trống ba. Nợ cũ chước nào báo bổ, Ơn thày, ơn chúa mấy ơn cha. 25 95. Xin làm mỗ bộ quản giang san, Có biết đâu là sự thế gian. Gối giải mây, dầu trúc múa, Cầm đưa gió, mặc thông đàn. Ngày xem hoa động chăng cài cửa, Tối rước chim về mã lạc ngàn. Gửi tính ngư tiều hai đứa lẫn, Của ai non nước khiến ta bàn. 26 96. [𠅜 Lề]

Lể phú tính uốn nên hình, Ắt đã trừng trừng nẻo thủa sinh. Há chẳng biến dời cùng thế thái,

[謳 âu]

Những câu tư túi có thần minh. Cưu lòng nhụ tử làm thơ dại, Ca khúc Thương-lang biết trọc thanh.

30

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Xét sự đã qua, hay sự đến, Bao nhiêu nơi nhục bởi nơi vinh. 27 97. Thiêu hương đọc sách, quét con am, Chẳng bụt, chẳng tiên, ắt chẳng phàm. Ánh cửa, trăng mai lớp lớp, Kề song, gió trúc nồm nồm. Ðầu non Thiếu-thất đen bằng mực, Dòng nước Liêm-khê lục nữa lam. Tiêu sái mấy lòng đà mạc được, Bảo chăng khứng mạc một lòng thơm. 28 98. Non tây bóng ác đã màng tang, Nhận đỉnh tùng thu vắng chừng. Thư nhạn lạc lài khi gió, Tiếng quyên khắc khoải thủa trăng. Gia sơn cũ, còn mường tượng, Thân thế già, biếng nói năng. Khó ngặt qua ngày, xin sống, Xin làm đời trị mỗ thái bình. 29 99. Phúc thay, sinh gặp thủa thăng bình, Nấn ná qua ngày được dưỡng mình. Trong mặt những mừng ơn bậu bạn, Trên đầu luống đội đức triều đình. Tuổi cao, tóc bạc, cái râu bạc, Nhà ngặt, đèn xanh, con mắt xanh. Ở thế, đằng nào là của trọng? Vui chẳng đã đạo làm lành. 30 100. Vận, trị cùng loàn chỉn đếm thì, Bằng ta sinh uổng có làm chi.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

31

VIỆN VIỆT-HỌC

Ơn vua luống nhiều phần đội, Việc nước nào ích mỗ bề. Rắp tới đã chăng hay chốn tới, Hầu đi lại chửa biết đường đi. Tôi người, hết tấc lòng trung hiếu,

[󰕘 ngươi]

Ai há liệu nơi thịnh suy. 31 101. Nước xuôi, nước ngược toả đôi chiều,

[隊 đòi]

Thuyền khách chơi thu các lái chèo. Mái thác trăng, dường thế hứng, Buồm nhân gió, mặc khi phiêu. Phơ phơ đầu bạc ông câu cá, Leo lẻo doành xanh con mắt mèo. Ấu lộ cùng ta dường có ý,

[鷗 Âu]

Ðến đâu thì thấy nó đi theo.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-54 32

102. [𥿕chụm]

Chiếm tự nhiên lều một gian, Giũ không thay thảy đám hồng trần. Ngàn hàng cam quít con đòi cũ, Mấy đứa ngư tiều bầu bạn thân. Thấy nguyệt tròn, thì kể tháng, Nhìn hoa nở mới hay xuân. Cày ăn, đào uống yên đòi phận,

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-55

Sự thế chăng hay đã Hán, Tần ?

33 103. Kẻ thì nên bụt, kẻ nên tiên, Tượng thấy ba thân đã có duyên. "Bành" được "Thương" thua con tạo hoá, Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên. Có thân mựa lệ phạp bằng hữu, Ðọc sách thời xem thấy thánh hiền. Ta nếu ở đâu vui thú đấy, Người xưa ẩn cả lọ lâm tuyền.

32

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

34 104. Tự nhiên đắp đổi đạo trời, Tiêu trưởng doanh hư một phút dời. Muối mấy dưa dầu đủ bữa, Nhiễu cùng gấm mặc chưng đời. Công danh dày dạn già lú, Tạo hoá đong lừa trẻ chơi. Sự thế đã hay thời vậy, Có ai cốc được mỗ cười cười. 35 105. Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều, Chân rừng chiếm một gian lều.

[chụm]

Cửa hèm khách tục nào cho đến, Song vắng chim phàm chớ tới kêu. Lặt hoa tàn xem ngọc rụng, Soi nguyệt xấu kẻo đèn khêu. Giàu những của tự nhiên ấy, Khủng khỉnh dầu lòng ở đất Nghiêu. 36 106. Uổng có thân nhàn, cực thửa nuôi, Ghê đường dại dột mỗ nên xuôi. Nào ai dễ có đường chân thật ? Ở thế tin gì miệng đải bôi.

[đãi]

Khóng thẩy kẻ cười cùng kẻ thốt, Khó khăn người dễ mấy người duôi. Nhân gian mọi sự đều nguôi cả, Một sự quân thần chẳng khứng nguôi. 37 107. Nẻo từ nước có đao binh, Nấn ná am quê thú cực thanh. Ðình Thấu Ngọc, tiêu đang tuyết nhũ,

[煎 tiên]

Song Mai hoa, điểm quyển Hi kinh.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

33

VIỆN VIỆT-HỌC

Hẹn này nỡ phụ ba đường cúc, Tiếc ấy vì hay một chữ đinh. Mọi sự đã chăng còn ước nữa; Nguyện xin một thấy thủa thăng bình. 38 108. Phồn hoa một đoạn tỉnh mơ, Mẩy chuông tàn cảnh xác xơ. Chim có miệng kêu âu lại ngẫm, Cáo khuyên lòng ở mã còn ngờ. Chẳng cài cửa, tiếc non che khuất, Sá để thuyền, cho nguyệt chở nhờ. Ta ắt muốn nhàn, quàn muốn lạnh,

[官 quan]

Lo thay vì lụy phải thờ ơ. 39 109. Lấy đâu xuất, xử lọn hai bề, Ðược thú làm quan, mất thú quê. Ngòi cạn ước ở làm khăn khắn, Cửa quyền biếng mặc áo thê thê. Mừng cùng viên hạc, quen lòng thắm, Ðã kẻo thuần lô bảo hạn về. Thong thả dầu ta ngoài thế giới, La, ngàn non nước một thằng hề. 40 110. Ngọ thời nằm, đói lại ăn, Việc vàn ai hỏi áo bô cần. Tranh treo vách, nài chi bức, Ðình thưởng liên, năng có gian. Vườn quỳnh, dầu chim kêu hót, Cõi trần, có trúc đứng ngăn. Già vuỗn lấy rượu phù khoẻ, Hoạ lại quên lòng khó khăn.

34

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

41 111. Chớ còn chăng chẳng, chớ quyền quyền, Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn. Tích đức cho con hơn tích của, Ðua lành cùng thế mã đua khôn. [念 niềm]

Một lòng trung hiếu làm lộc cả, Hai quyền thi thư ấy báu chôn. Ở thế làm chi câu thúc nữa, Nhi tôn đã có phúc nhi tôn.

VII. TỰ THUẬT [11 bài] 1 112. Thế gian đường hiểm há chăng hay, Càng còn đi, ấy thác vay. Nước kiến phong quang hầu mấy kiếp ? Rừng nho nấn ná miễn qua ngày. Tóc nên bạc, bởi lòng ưu ái; Tật được tiếu, nhờ thuốc đắng cay. Kì kí, nô thai

25

[消 tiêu]

đà có đấy,

Kẻ nhìn cho biết, lại khôn hay. PHỤ CHÚ: 25) 騏驥 Kì kí = ngựa hay; 駑駘 nô đài/thai = ngựa hèn . 2 113. Tính ắt trần trần nẻo sinh, Ngại đòi thời thế, biến nhiều hành. Tuế tàn, cảnh đã về ban muộn, Tóc bạc biên khôn chước lại xanh. Ở thế thì cho ta những thiệt, Khoe mình há chịu miệng rằng lành ? Khiêm nhường ấy mới biều quân tử,

[鑣/ miều] tiêu ?

Ai thấy Di Tề có thửa tranh?

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

35

VIỆN VIỆT-HỌC

3 114. Uổng sinh lẩn thẩn mỗ già, Mọi sự đều nên "thuấn nhược đa". Bầy ngựa dầu lành nào Bá Nhạc, Cái gươm nhẫn có thiếu Trương Hoa. Ngon mùi đạo, phiến hoàng quyền, Tả lòng sầu, chén tử hà. Phong nguyệt dầu ta, ai kẻ đoán, Ðược ngâm nga ắt sá ngâm nga. 4 26

115.

Khó khăn là của thế gian yêm, Huống mỗ già, dại dột thêm. Cúc đợi đến thu hương chỉn muộn, Mai sinh phải tuyết lạnh chăng hiềm. Gia sơn đường cách muôn dặm, [nửa ?]

Ưu ái lòng phiền nữa đêm. Biển hiểm nhân gian ai kẻ biết, Ghê thay thế nước vị qua mềm. PHỤ CHÚ: 26) Đánh số sai 2 bài 114 & 115.

5 116. Hơn thiệt đành phần sự chửa liều, Ðược nhàn ta ắt sá tiêu diêu. Ngọc lành, nào có tơ vết, Vàng thật, âu chi lửa thiêu. Ỷ Lý hà cầu quan tước Hán, Hứa Do quản ở nước non Nghiêu. Phồn hoa chẳng cám, ngặt yên phận, Trong thế anh hùng thế mới biều.

[鑣/ miều] tiêu ? 6

117. Lan còn chín khúc, cúc ba đường, Quê cũ chẳng về, nỡ để hoang.

36

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Thương nhẫn Biện Hoà ngồi ấp ngọc, Ðúc nên Nhan-tử tiếc chi vàng. Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh, Cảnh ở tựa chiền, lòng tựa vang. Dường ấy của no cho bậc nữa, Hôm chiều đáo để có công mang. 7 118. Thuốc tiên thường phục tử-hà-sa, Bồng-đảo khôn tìm ngày tháng qua. Tính ắt nhiễm cùng bầy một thạch,

[ 排木石 bầy mộc thạch]

Lòng còn chạnh có thú yên hà. Lồng chim, ao cá từ làm khách, Ngòi nguyệt, ngàn mai phụ lệ nhà. Cửa động chẳng hay lìa nẻo ấy, Bích đào đã mấy phút đâm hoa. 8 119. Mấy thu áo khách nhiễm hơi dâm, Bén phải Ðông hoa bụi bụi xâm. Dủ viên hạc, xin phương giải tục, Quến mai trúc, kết bạn tri âm. Nha tiêm tiếng động án Chu Dịch, Thạch đỉnh hương tàn khói thủy trầm. Lều tiện qua ngày yên thửa phận, Ðái cao chẳng lọ tháp hoàng câm. 9 120. Ở thế nhiều phen thấy khóc cười, Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi. Lòng người một sự yêm chưng một, Ðèn khách mười thu lạnh hết mười. Phượng những tiếc cao, diều hãy lượn, Hoa thì hay héo cỏ thường tươi. Ai ai đều có hai con mắt, Xanh, bạc dầu chưng mặt chúng cười.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

37

VIỆN VIỆT-HỌC

10 121. Danh chẳng chuốc, lộc chẳng cầu, Ðược ít chẳng mừng, mất chẳng âu. Có nước nhiễu song, non nhiễu cửa, Còn thơ đầy túi, rượu đầy bầu. Người tri âm ít, cầm nên lặng, Lòng hiếu sinh nhiều, cá ngại câu. Mấy kẻ công danh nhàn lẳng đẳng, Mồ hoang, cỏ lục thấy ai đâu. 11 122. Hoạn nạn nhiều thu tổn khí hào, Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao. Nước càng tuôn đến bể càng cả, Ðất một chồng thêm núi một cao. Sự thế chưng ta dầu đạm bạc, Hiên mai đeo nguyệt quản tiêu hao. Vũ truyền thiên hạn Nhan Uyên ngặt, Ðổi đất song thì có khác nao. VIII. TỨC SỰ [4 bài] 1 123. Chạnh yên hà, trải một gian đình, Quét đất, thiêu hương, giảng ngũ kinh. Chim đỗ tổ, nhìn còn biết mặt, Hoa trên rừng, thấy hoạ hay danh. Ðai lân, phù hổ lòng chăng ước, Bến trúc, đường thông cảnh cực thanh. Có thủa giang lâu ngày đã tới, Thuyền hoà còn dội tiếng "đinh đinh". 2 124. Lấy biều phú quí đổi biều nhàn,

[鑣/ miều] tiêu ?

Có kẻ thì chê, có kẻ khen. Chốn ở, trải gian lều lá,

38

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Mùa qua, chằm bức áo sen. Hoa còn để động lam đất, [杄 then]

Cửa một dường cài lướt thẹn. Ai thấy rằng cười là thế thái, Ghê thế, biến bạc làm đen.

3 125. Thư trai vắng vẻ cảnh ngày trường, Một quyển Hi-kinh, một triện hương. Tréo chân nằm vườn Ðộc-lạc, Dựng lều ở đất Nam-dương. Hoa trang dùng thải bầy chi phấn, Thông xá bù trì mộng quyết lương. Mã trách thế gian lòng đạm bạc, Thế gian đạm bạc đấy lòng thường. 4 126. Giậu thưa thưa hai khóm cúc, Giường27 thấp thấp một nồi hương. Vượn chim kết bạn non nước quạnh, Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường. Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bồ quen cật vận xênh xang. Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp, Ðều kết làm tôi thánh thượng hoàng. PHỤ CHÚ: 27)

 mượn nghĩa chữ 󰊚 (sàng) giường . IX. TỰ GIỚI

127. Làm người thì giữ đạo: "trung dung", Khăn khắn dặn dò thửa lòng. Hết kính hết thìn bề tiến thoái, Mã tham mã dại, nết anh hùng. Hùm oai, muông mạnh còn nằm cũi, Sáo hót, chim khôn phải ở lồng.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

39

VIỆN VIỆT-HỌC

Nén lấy hung hăng bề huyết khí, Tai nàn chẳng phải, lại thung dung. X. BẢO KÍNH CẢNH GIỚI (61 bài) 1 128. Ðạo đức hiền lành được mọi phương, Tự nhiên cả muốn chúng suy nhường. Lợi tham hết lấy nhiều thì cạnh, Nghĩa phải đem cho, ít chẳnh phương. Sự thế sá phòng khi được mất, Lòng người tua đoán thủa mừng, thương. "Chẳng nhàn" xưa chép rày truyền bảo, Khiến chớ cho qua một đạo thường. 2 129. Bền đạo trung dung chẳng thủa tàng, Màng chi phú quí nhọc khoe khoang. Ðông về, tiết muộn, mai nhiều bạc, Thu nẻo, tin truyền, cúc có vàng. Kết bạn, mạ quên người cố cựu, Yên nhà, nỡ phụ vợ tao khang. Nước, đào giếng; cơm, cày ruộng, [羕 dường]

Thảy thảy đường bằng nguyệt cửu giang. 3 130. Có của hằng chu, lại có thông, Tích nhiều con cháu nọ trông. Nghiệp Lưu Quí thịnh, đâu truyền báu? Bia Ngụy Trưng cao, há nối tông ? Hiềm kẻ say chưng bề tửu sắc, Hoà người thì được thói cha ông. Còn nhau sá họp toan ăn uống, Tám chín mươi thì vạn sự không.

40

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

4 131. Nhân nghĩa trung cần chứa tích ninh, Khó thì hay khéo, khốn hay hanh. Ðời Thương, thánh biết cầu Y Doãn, Nhà Hán, ai ngờ được Tử Khanh. Khi bão, mới hay là cỏ cứng Thủa nghèo thì biết có tôi lành. Kìa ai cây cả nhàn ngồi tựa ? Nếu có công nhiều, lọ phải tranh. 5 132. Phúc của chung, thì họa của chung, Thẩm thời hoạ khỏi, phúc về cùng. Văn chương chép lấy, đòi câu thánh, Sự nghiệp tua thìn, phải đạo trung. Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược, Có nhân, có trí, có anh hùng. Gìn cho biết nơi dường ấy, Chẳng thấp thì cao ắt được dùng. 6 133. Lấy khi phú quí đắp cơ hàn, Vần chuyển chẳng dừng, sự thế gian. Nẻo khỏi tiểu nhân, quân tử nhọc, Dầu chăng quân tử, tiểu nhân loàn. Của nhiều, sơn dã, đem nhau đến, Khó ở kinh thành, ít kẻ han. Hằng lấy đạo trung làm nghĩa cả, Qua ngày, qua tháng được an nhàn.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-69 7

134. Cắp nắp làm chi hỡi thế gian, Có thì ăn mặc, chớ lo toan. Ðông, hiềm giá lạnh, chằm mền kép, Hạ, lệ mồ hôi kết áo đơn.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

41

VIỆN VIỆT-HỌC

Nằm có chiếu khăn cho ấm áp, Ăn thì canh cá, chớ khô khan. Phúc dầu hay đến trăm tuổi, Mình thác thì nên mọi việc tan. 8 135. Vinh hoa, nhiều thấy29 khách đăm chiêu, Bần tiện ai là kẻ trọng yêu. Của đến nước xa nên quí giá, Người lìa quê cũ lấy làm phiêu. Nuôi con mới biết lòng cha mẹ, Thấy28 loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu. Phúc kịp ngần nào ấy mệnh, Làm chi đua nhọc tổn công nhiều.

TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-63

PHỤ CHÚ: 28) Trong một bài, bản Nôm viết hai chữ thấy khác nhau: c. 1 c. 6

 chữ hình thanh 𧡊. 9

136. Trần trần mạ cậy những ta lành, Hoạ phúc tình cờ xảy chửa đành. Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn, Lòng người quanh nữa nước non quanh. Chẳng ngừa nhỏ, âu nên lớn, Nếu có sâu, thì bỏ canh. Ở thế an nhàn chăng có sự, Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh. 10 137. Muốn ăn trái, dưỡng nên cây, Ai học thì hay, mã lệ chầy. Rợ đứt khôn cầm bầy ngựa dữ, Quan cao nào đến dáng người ngây. Trị dân xưa lập lòng cho chính, Có nước thường in nguyệt khá xây. Có chẳng, có tài dùng chẳng đến?

42

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

 mượn âm chữ 体 (thể),

VIỆN VIỆT-HỌC

Mạ rằng thánh đức có nơi khuây. 11 138. Cưu một lòng ngay khác chúng người, Ở chưng trần thế mấy phen cười ? Phúc nhiều xưa bởi nơi ta tích, Xuân đến tự nhiên mọi vật tươi. Có của bo bo hằng chực của, Oán người nơm nớp những âu người. Làm chi háo hức lòng nhiều bấy ? Phiếu nhân sinh bảy tám mươi ? 12 139. Giàu, người họp; khó, người tan, Hai ấy hằng lề sự thế gian. Những kẻ ân cần khi phú quí, Hoạ ai bao bọc thủa gian nan ! Lều không, con cái bằng tình phụ, Bếp lạnh, anh tam biếng hỏi han. Lòng thế bạc đem dầu nó biến, Ta thìn nhân nghĩa chớ loàn đơn. 13 140. Phú quí thì nhiều kẻ đến chen, Uốn đòi thế thái, tình chưa quen. Cơm ăn miễn có, dầu thô bạc, Áo mặc âu chi quản cũ đen. Khó ngặt hãy bền lòng khó ngặt, Chê khen mã ngại tiếng chê khen. Ruộng nhiều, quê tổ, năm ba thửa, Tạc tỉnh, canh điền tự tại nhàn. 14 141. Tài luận công danh hợp mọi bề, Dại ngây nên ít kẻ khen chê. Khách hiền, nào quản quen cùng lạ,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

43

VIỆN VIỆT-HỌC

Cơm đói, nài chi hẩm mấy khê. Yên phận cũ chăng mừng phận khác, Cả lòng đi mặc nhủ lòng về. Người cười dại khó, ta cam chịu, Ðã kẻo lầm đầm miễn mất lề. 15 142. Ðồng bào cốt nhục nghĩa càng bền, Cành bắc cành nam một cội nên. Ðiền địa chớ tham, hơn bổ ải, Nhân luân mã lấy dưới làm trên. Chân tay dầu đứt, bề khôn nối, Xống áo chẳng còn, mua dễ xin. [世 thế]

Ở thé nhịn nhau muôn sự đẹp, Cương, nhu cùng biết hết hai bên.

16 143. Bởi lòng chẳng ở cửa quyền, Há rằng quân thần chẳng phải duyên. Song viết có nhiều dân có khó, Cửa nhà càng thoáng thế càng phiền. Ðem mình non nước nhàn qua tuế, Kết bạn thông mai ngõ phỉ nguyền. Chúc thánh cho tày Nghiêu, Thuấn nữa, Ðược về ở thú điền viên. 17 144. [役 việc]

Ăn lộc nhà quan chịu viêc quan, Chớ tham tiểu lợi phải gian nan. Cầu hiền chí cũ mong cho được,

[不 Bất]

Bắt nghĩa lòng nào mã nỡ toan. Chứa thủa phong lưu, pha thủa khó, Lấy khi phú quí đắp khi hàn. Cho hay bĩ, thái mới lề cũ, Nếu có nghèo, thì có an.

44

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

18 145. Có tông, có tộc, mạ sơ thay, Vạn diệp thiên chi bởi một cây. Yêu trọng người dưng là của cải, Thương vì thân thích nghĩa chân tay. Quan cao nhắn nhũ môn đồ nọ,

[nhủ]

Hoạn nạn phù trì huynh đệ bay. Phiêu bạc cùng nhau còn được cậy, Mạ nghe sàm nịnh có lòng tây. 19 146. Sinh đẳng trung, đà phúc đức thay, Chẳng cao, chẳng thấp, miễn qua ngày. Ở yên thì nhớ lòng xung đột, Ăn lộc, đều ơn kẻ cấy cày. Nhiều của ấy chẳng qua chữ nghĩa, Dưỡng người cho kẻo nhọc chân tay. Trời đã có kho vô tận, [孫 tôn]

Dành để nhi tồn khỏi bị vay.

20 147. Lành, người đến; dữ, người ruồng, Yêu xạ vì nhân mùi có hương. Ở ngặt thì hơn nhiều kẻ trọng, Qua châu liền ủng ... có ai màng. Lòng làm lành đổi lòng làm dữ, Tính ở nhu hơn tính ở cương. Ngâm kíp thắm, thì phai lại kíp, Yêu nhau chẳng đã đạo thường thường. 21 148. Ở bầu thì dáng ắt nên tròn, Xấu tốt, đều thì lắp khuôn. Lân cận nhà giàu no bữa cốm, Bạn bè kẻ trộm phải đau đòn.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

45

VIỆN VIỆT-HỌC

Chơi cùng đứa dại nên bầy dại, Kết mấy người khôn học nết khôn. Ở đằng thấp, thì nên đẳng thấp, Ðen gần mực; đỏ gần son. 22 149. Của thết người là của còn, Khó khăn, phải đạo, cháo càng ngon. Thấy ăn chạy đến thì no dạ, Trợ đánh bênh nhau ắt phải đòn. Chớ lấy hại người làm ích kỷ, Hãy năng tích đức để cho con. Tay ai thì lại làm nuôi miệng, Làm biếng ngồi ăn lở núi non. 23 150. Rừng nho khoáng nãn ngàn âm, Hột29 cải tình cờ được mũi kim. Biển học, trường văn hằng nhặt bới, Ðường danh, lối lợi hiểm khôn tầm. Chúa đàn nẻo khỏi tan con nghé, Hòn đất hầu lầm mất cái chim. Khảm ruộng, ăn ngày tháng đủ, Bạn cùng phiến sách, tiếng đàn cầm. PHỤ CHÚ: 29)

 mượn âm chữ 紇 (hột). 24

151. Ai trách hiềm cây, lại trách mình, Vốn xưa một cội thác cùng cành. Cành khô rắp, bấy nay nên củi, Hột chín phơi chờ rắp để bình. Than lửa hoài chưng thương vật nấu, Thiêu tiếng khóc cảm thần linh. Thế gian ai có thì cốc, Mựa nữa cho khuây nghĩa đệ huynh.

46

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

25 152. Cơn cớ nguyền cho biết sự do, Xem mà quyết đoán lấy cương nhu. Ðược thua cứ phép làm thằng mặc, Cao thấp nài nhau tựa đắn đo. Lỗi thác sá toan nơi uỷ khúc, Hoà hưu thì khiến, nọ tù mù. Tội ai cho nấy cam danh phận, Chớ có thân sơ, mới trượng phu. 26 153. Trong tạo hoá có cơ mầu, Hay đỗ, hay đừng, mới kéo âu. Nước biếc non xanh, thuyền gối bãi, Ðêm thanh nguyệt bạc, khách lên lầu. Chén châm rượu đục ngày ngày cạn, Tôi quảy thơ nhàn chốn chốn thâu. Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến, Ðồng-giang được náu một đài câu. 27 154. Một vườn hoa, trúc, bốn bề thâu, Lánh thân nhàn được thú mầu. Dưới tạc nên ao chín khúc, Trong nuôi được cá ngàn đầu. Cuộc lần cờ thấp tan ngày diễn, Bếp thắng trà khô gột thủa âu. Bốn biển nhẵn còn mong đúc chuốt, Dầu về, dầu ở, mặc ta dầu. 28 155. Ngàn dặm xem mây nhớ quê, Chẳng chờ gói ấn gượng xin về. Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại, Hai chữ công danh biếng vả vê.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

47

VIỆN VIỆT-HỌC

Dẫn suối, nước đầy cái trúc, Quẩy trăng, túi nặng thằng hề. Ðã ngoài chưng thế, dầu hơn thiệt, Chẳng quản ai khen, chẳng quản chê. 29 156. Chớ người trọc trọc chớ ta thanh, Lấy phải thời trung đạo ở kinh. Rồi việc mới hay nhàn được thú, Khỏi quyền đã kẻo luỵ chưng danh. Một bầu, hoạ biết lòng Nhan-tử, Tám trận, khôn hay chước Khổng Minh. Song viết huống còn non nước cũ, Mặc dầu thua được có ai tranh. 30 157. Chẳng khôn, chẳng dại, luống ương ương ,

TRÙNG: Bạch Vân Am NBK_100-1 極坤極󰒺𨻫央央

Chẳng dại người hoà lại chẳng thương. Bến liễu mới dời thuyền đón nguyệt, Gác vân còn chứa bút đeo hương. Sách ngâm, bạc rẽ mai trong tuyết, Ðối uống, vàng đầy cúc thủa sương. Văn đạt chẳng cầu, yên mỗ phận, Ba gian lều cỏ đất Nam-dương. 31 158. Chân mềm ngại bước dậm mây xanh,

[琰 dặm]

Quê cũ tìm về, cảnh cũ thanh. Hương cách gác vân, thu lạnh lạnh, Thuyền kề bãi tuyết, nguyệt chênh chênh. Ân tư là ấy yêu dường chúa, Lỗi thác vì nơi luỵ bởi danh. Vui có một niềm trung hiếu cũ, Chẳng nằm, thức dậy, nẻo ba canh.

48

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

32 159. Mọi việc đành hơn hết mối âu Ðiền viên lánh, mặc ta dầu. Sách ngâm song có mai và điểm, Dời ngó, rèm in nguyệt một câu. Dưới công danh nhiều thác cả, Trong ẩn dật có cơ mầu. Ðạo quân thân nhẫn dầu ai lỗi, Hổ xanh xanh ở trốc đầu. 33 160. Sóng khơi ngại vượt biển triều quan, Lui tới đòi thời miễn phận an. Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt, Quét hiên, ngày lệ bóng hoa tàn. Ðời dùng, người có tài Y, Phó, Nhà ngặt, ta bền đạo Khổng Minh.

[孔顔 Khổng Nhan]

Kham hạ hiền xưa toan lẫn được, Ngâm câu: "danh lợi bát như nhàn".

[不 bất] 34

161. Yêu nhọc nhiều phen uốn đã từng, Lòng người sự thê thẩy lâng lâng.

[世 thế]

Trọng thì nên ngỏ, nhàn thì dậy, Mất chẳng hề âu được chẳng mừng. Yên lạc một lều dầu địch, Thái bình mười chước ngại dâng. Nọ nào biết được lòng tri kỷ, TRÙNG: Xem Bạch Vân Am NBK-6

Vịnh non tây nguyệt một vừng.

35 162. Thế tình khéo uốn, uốn bằng câu, Ðòi phận mà yên, há sở cầu. Dịp, còn theo tiên gác phượng, Rày, đà kết bạn sa âu.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

49

VIỆN VIỆT-HỌC

Ðược thời, xem áng công danh dễ, Ðến lý, hay cơ tạo hoá mầu. Kham hạ Trương Lương chẳng khứng ở, Tìm tiên, để nộp ấn phong hầu. 36 163. Lọ chi thành thị, lọ lâm tuyền, Ðược thú thì hơn miễn phận yên. Vụng bất tài, nên kém bạn, [意 ấy]

Già vô sự áy là tiên. Ðồ thư bốn vách, nhà làm của, Phong nguyệt năm hồ, khách nổi thuyền. Cùng, đạt lẽ hay này có mệnh,

[隊 Đòi]

Ðời cơ tạo hoá mặc tự nhiên.

37 164. Một yên, một sách, một con lều, Song viết bao nhiêu mặc bấy nhiêu. Giậu cúc thu vàng nảy lác, Sân mai tuyết bạc che đều. Có con mới biết ơn cha nặng, Dành lộc thì hay nghĩa chúa nhiều. Gẫm trong nhàn nào thửa được, Ðầy song hoa nở, tiếng chim kêu. 38 165. Mấy phen lần bước dặm thanh vân, Ðeo lợi làm chi luống nhọc thân. Nhớ chúa lòng còn đan một tấc, Âu thời tóc đã bạc mười phân. Trì thanh, cá lội in vầng nguyệt; Cây tĩnh, chim về rợp bóng xuân. Dầu phải, dầu chăng, mặc thế, Ðắp tai biếng mảng sự vân vân.

50

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

39 166. Nối nghiệp tiên nhân đọc một kinh, Chẳng ngờ bước tới áng công danh. Cảm ơn nỡ phụ muôn đời chúa, [丁 đinh]

Phải luỵ vì nhân một chữ đỉnh. Vũ-tử lui, tuy chịu dại, Bá Di lánh, mỗ nên thanh. Xưa còn chép câu kinh để: "Yên phận thì chăng nhục đến mình".

40 167. Làm người biết máy khôn lao, Lỗi thác ai vì mỗ chút nào. Một phút khách chầy còn thấy hỏi, Hai phen lần đến ắt chăng chào. Cửa thầy, giá nhơn nhơn lạnh 30, Lòng bạn, trăng vằng vặc cao. Lan, huệ chẳng thơm thì chớ, Nỡ chi lại phải chốn tanh tao. PHỤ CHÚ: 30) Bản Nôm: 這然然冷 Cửa thầy, giá nhiên nhiên lạnh. 41 168. Ðổi lần đã mấy áng phôn hoa,

[phồn]

Dầu ngặt, ta vui đạo ta. Ngắm xem mai, hay tuyết đến, Say thưởng nguyệt, lệ thu qua. Ba thân hương hoả nhờ ơn chúa, Một cửa thi thư dõi nghiệp nhà. Thấy biển triều quan đà ngại vượt, Trong dòng phẳng, có phong ba. 42 169. Dửng dưng sự thế, biếng đua tranh31, Dầu mặc chê khen, mặc dữ lành.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

51

VIỆN VIỆT-HỌC

Bói ở, lần tìm xem non Tạ Phó, Xin về, xưa gói ấn Ngu Khanh. Làng doành32 một áng mây bạc, Khách khứa hai ngàn núi xanh. Có thủa biếng thăm bạn cũ, Lòng thơ ngàn dặm, nguyệt ba canh. PHỤ CHÚ: 31) Bản Nôm: 堆争 đôi tranh 32) Bản Nôm: 廊盈 (lang doanh); NĐH-LVĐ: láng diềng. 43 170. Rổi, hóng mát thủa ngày trường, Hoè lục đùn đùn tán rợp giương. Thạch lựu, hiên còn phun thức đỏ, [池 trì]

Hồng liên, trí đã tiễn mùi hương. Lao xao chợ cá, làng ngư phủ, Dặng dõi cầm ve, lầu tịch dương. Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ, khắp đòi phương.

44 171. Ðói khó thì làm việc ngửa tay, Chớ làm sự lỗi, quỉ thần hay. Nhiều khôn chẳng đã bề khôn thật, Trăm khéo nào qua chướng khéo đầy. Có của cho người, nên rộng miệng, Chẳng tham ở thế, kẻo chau mày. Bất nhân vô số nhà hào phú: Của ấy nào ai từng được chầy ! 45 172. Có xạ tự nhiên mùi ngát bay, Lọ là đứng gió vung tay. Bánh lành trong lá ghê người thấy,

[ ghe]

Tiền tốt ngoài biên hoạ kẻ hay. Mực thước thế gian dầu có phải,

52

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Cân xưng thiên hạ dễ đâu tày. Nhiều khôn, nhiều khó lo cho nhọc, Chẳng đã khôn ngay, khéo đầy. 46 173. Kẻ khôn thì bảo kẻ ngây phàm, Nghề nghiệp cầm tay ở mấy cam. Nen thợ, nên thầy vì có học,

[Nên]

No ăn, no mặc, bởi hay làm. Một cơm hai việc nhiều người muốn, Hai thứ ba dòng hoạ kẻ tham. Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa, Mã tây mặt khiến mấy lòng đam. 47 174. Tuy rằng bốn biển cũng anh tam, Có kẻ hiền lành, có kẻ phàm. Nhiều thuyết đã đành nhiều sự lỗi, Ít ăn thời lại ít người làm. Xa hoa ở rộng, nên khó, Tranh cạnh làm hờn bởi tham. Kìa thừng nọ, dai nào có đứt, Người hơn, ta thiệt, mới hầu cam. 48 175. Lộc trời cho đã có ngần, Tua hay thửa phận, chớ còn nàn. Giàu nhiều của, con chẳng có, Sống hơn người, mệnh khó khăn. Hễ kể danh thơm hay được phúc, Mấy người má đỏ phải nhiều lần. Vắn, dài, được, mất dầu thiên mệnh, Trãi quái làm chi cho nhọc nhằn. 49 176. Việc ngoài hương đảng chớ đôi co,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

53

VIỆN VIỆT-HỌC

Thấy kẻ anh hùng hãy nhẫn cho. Rợ nọ có dai nào có đứt, Cây kia toan đẳn lại toan đo. Chớ đua huyết khí nên giận, Làm mất lòng người những lo. Hễ kẻ làm khôn thì phải khó, Chẳng bằng vô sự ngáy o o 33. PHỤ CHÚ: 33) Bản Nôm: 孚孚 phu phu 50 177. Ðiền địa nhà ta thấy đầy, Tạo tình những ước được lâu ngày. Xuân qua, còn bảo con đòi cuốc, Hạ đến, đà cho kẻ khác cày. Cóp lại, thửa làm càng tổn thiệt, Ích chi, còn muốn nhọc chân tay. Ruộng nương là chủ, người là khách, [ chầy]

Ðạo đức lành, ấy của thầy.

51 178. Bầu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong, Người kia phú quí, nỡ quên lòng. Chặt vàng chẳng nhớ câu Hy Dịch, Khinh bạc màng ngâm thơ Cốc-phong. Quân tử nước giao âu những lạt, Hiền nhân rượu thết lọ là nồng. Một phen bạn đến còn đầm thấm, Hai bữa mừng nhau một mặt không. 52 179. Chép hết bao nhiêu sự thế ư, Ai ai đã biết được hay chưa? Kim ngân ấy của người cùng muốn, Tửu sắc là nơi nghiệp khá chừa. Thế sự trai yêu thiếp mọn,

54

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Nhân tình gái nhớ chồng xưa. Chẳng say, chẳng đắm là quân tử, Người hiểm lòng thay ! hãy sá ngờ. 53 180. Chẳng hổ thân già tuổi tác hư ! Khó khăn, dại dột, mỗ lừ cừ ! Toan cùng người mấy thì chưa đủ, Xử một ta nay ắt có dư. Bạn tác rạch ròi đà phải chịu, Anh em trách móc ỷ khôn từ. Bằng rồng nọ, ai phen kịp, Mất thế cho nên mặt dại ngơ.

Mất :

 mượn âm chữ 末 (mạt)

54 181. Ðược, mất, tuy nơi sự tiếc, mừng, Ðạo ta thông biết hết lâng lâng. Non cao bạch thạch nào đời chuyển, Nước cả Hoàng-hà há thủa nhưng. Thiên hạ dõi truyền lăng có thước, Thế gian bảo rắng thóc toan thưng. Nhọc nhằn ai chớ còn than thở, [咹 Ăn]

Ăn có dừng thời việc có dừng.

55 182. Ðể truyền bia miệng kiếp nào mòn, Cao thấp cùng xem sự mất, còn. Thương cá thác vì câu uốn lưỡi, Ngâm trai nào chiết bát màu hòn. Già mặc số trời đất, Dầu ai qua vợ con. Quân tử, thánh hiền lòng tựa nước, Càng già càng ngẫm của bùi ngon. 56 183. Trí qua mười, mới khá rằng nên,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

55

VIỆN VIỆT-HỌC

[𥙩 lấy]

Ỷ lây nho hầu đấng niên. Ðao bút phải dùng tài đã vẹn, Chỉ thư nấy chép việc càng chuyên. Vệ nam mãi mãi la tay thước, Ðiện bắc đà đà yên phận tiên. Nghiệp Tiêu Hà làm khá kịp, Xưa nay cùng một sử xanh truyền.

57 184. Tài đức thì cho lại có nhân, Tài thì kém đức một hai phân. Thờ cha, lấy thảo làm phép, Rập chúa, hằng ngay mấy cần. Ðọc sách thì không đòi nghĩa sách,

[通 thông]

Ðem dân, mạ nỡ mất lòng dân. Của chăng phải đạo, làm chi nữa, Muôn kiếp nào hề luỵ đến thân. 58 185. Này rày nhắn bảo khách bàng quan, Khôn phải lo lường, dại được yên. Nọ kẻ tranh hùng nên Hán tướng, Kìa ai từ tước ẩn Thương-sơn. Già tôi thép, cho nên mẽ, Bể nồi hương bởi ngã bàn. Khuyên kẻ trượng phu sinh ở thế, Hễ đường bất nghĩa chớ loàn đa. 59 186. Của nhiều sinh chẳng được con hiền, Ngày tháng công hư chực lỗ tiền. Tua sá khoan khoan lòng thế ít, Chớ màng cạy cạy khiến lòng phiền. Gia tài ấy xem nhàn hạ, Ðạo đức này khá chính chuyên. Say rượu, no cơm cùng áo ấm,

56

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Trên đời chỉn ấy khách là tiên. 60 187. Khó khăn, phú quí, học Tô Tần, Miễn đức hơn tài được mỗ phần. Khoe tiết làu làu nơi học đạo, Ở triều khăn khắn chữ trung cần. Cõi phàm tục, khỏi lòng phàm tục, Học thánh nhân, chuyên thói thánh nhân. Trung hiếu cương thường lòng đỏ, Tự nhiên lọn nghiệp ba thân. 61 188. Trung cần há nỡ trại cân xưng, Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng. Tước thưởng càng ngày càng dõi chịu, Ân thăng một bước một phen mừng. Ở đài các, giữ lòng Bao Chửng, Nhậm tướng khanh, thì thói Nguỵ Trưng. Khóng khảy thái bình đời thịnh trị, Nghiệp khai sáng tựa nghiệp trung hưng. XI. QUI CÔN SƠN, TRÙNG CỬU NGẪU TÁC 189. Trùng dương mấy phát khách thiên nha, Kịp phen này, được đỗ nhà. Túi đã không tiền khôn chác rượu, Vườn tuy có cúc chửa đâm hoa. Phong sương đã bén biên thi khách, Tang tử còn thương tích cố gia. Ngày khác hay đâu còn việc khác, Tiết lành, mà 34 nỡ để cho qua. PHỤ CHÚ: 34) Bản phiên đọc chữ 馬 (mã) ba lối: mã, mạ, mà.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

57

VIỆN VIỆT-HỌC

XII. GIỚI SẮC 190. Sắc là giặc, đam làm chi, Thủa trọng còn phòng có thủa suy. Trụ mất quốc gia vì Ðát Kỷ 35, Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi. Bại tan gia thất đời từng thấy, Tổn hại tinh thần sự ích chi. Phu phụ đạo thường chăng được chớ, Nối tông hoà phải một đôi khi. PHỤ CHÚ: 35) Bản Nôm viếi sai chữ 己 (kỷ) thành chữ 巳(Tỵ) : 妲己 (Ðát Kỷ) XIII. GIỚI NỘ 191. Giận làm chi, tổn khí hoà, Nào từng có ích ? nhọc mình ta ! Nẻo đua khí huyết, quên nhân nghĩa; Hoà mất nhân tâm, nát cửa nhà. Mấy phút, âm thầm, đường tích lịch, Một cơn lừng lẫy, tựa phong ba. Ðến khi tỉnh mới ăn năn lại, Nhẫn xong, thì vạn sự qua. XIV. HUẤN NAM TỬ 192. Nhắn nhủ phô bày đạo cái con, Nghe, lượm lấy lọ chi đòn. Xa hoa lơ đãng nhiều hay hết,

[浪 lãng]

Hà tiện âu đương ít hãy còn. Áo mặc miễn là cho cật ấm, Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon. Xưa đã có câu truyền bảo : "Làm biếng, hay ăn, lở non".

58

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

B. THỜI LỆNH MÔN XV. TẢO XUÂN ÐẮC Ý 193. Ðường tuyết, thông còn giá in, Ðã sai én ngọc lại, cho nhìn. Xuân chầy, liễu thấy chưa hay mặt, Vườn kín, hoa truyền mới lọt tin. Cành có tinh thần, ong chửa thấy, Tính quen khinh bạc, diệp chăng thìn.

[蝶 điệp]

Lạc-dương khách ắt thăm tinh nhọc, [駡 mạ]

Sá mẹ cho ai quẩy đến biên.

XVI. TRỪ TỊCH 194. Mười hai tháng lọn mười hai, Hết tấc đông trường sáng mai. Hắc-đế Huyền-minh đà đổi ấn, Sóc phong bạch tuyết hãy đeo đai. Chong đèn chực tuế 36 cay con mắt, Ðốt trúc khua na đắng lỗ tai. Chẳng thấy lịch quan tua sá hỏi, Ướm xem dần nguyệt tiểu hay đài. PHỤ CHÚ: 36) QATT có 17 chữ 歲 (tuế), bản phiên ghi "tuế" trong 3 câu: 113-3, 143-5, 194-5, các chỗ khác, đọc nghĩa "tuổi" của chữ 歲 (tuế). Trong câu 194-5 nầy, nếu đọc "tuổi" thì được trọn 7 âm Nôm. XVII. VÃN XUÂN 195. Tính từ gặp tiết lương thân, Thiếu một hai mà no chín tuần. Kiếp thiếu niên đi, thương đến tuổi37, Óc dương hoà lại, ngõ dừng chân. Vườn hoa khóc, tiếc mặt phi tử, Trì cỏ tươi, nhưng lòng tiểu nhân. Cầm cuốc chơi đêm, này khách nói,

[𤒘 đuốc]

Tiếng chuông chưa đóng ắt còn xuân.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

59

VIỆN VIỆT-HỌC

PHỤ CHÚ: 37)

 mượn nghĩa chữ 歲 (tuế) tuổi . QATT có 17 chữ 歲 (tuế), bản phiên ghi "tuổi" trong 14 câu: 30-2, 38-2, 40-7, 47-2, 54-6, 72-6, 75-7, 99-5, 120-2, 134-7, 180-1, 195-3, 205-2, 235-2. Ghi "tuế" trong 3 câu: 113-3, 143-5, 194-5. XVIII. XUÂN HOA TUYỆT CÚ

196. Ba tháng hạ thiên, bóng nắng dài, [冬 đông]

Thu đồng lạnh lẽo cà hoà hai.

秋冬冷了奇和𠄩

Ðông phong từ hẹn tin xuân đến, Ðầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi. XIX. HẠ CẢNH TUYỆT CÚ 197. Vì ai cho cái đỗ quyên kêu, Tay ngọc dùng dằng, chỉ biếng thêu. Lại có hoè hoa chen bóng lục, Thức xuân một điểm não lòng nhau. XX. THU NGUYỆT TUYỆT CÚ 198. Ðông đà muộn lại sang xuân, Xuân muộn tới hè lại đổi lần. Tính kể tư mùa có nguyệt, Thu âu là nhỉnh một hai phần. XXI. TÍCH CẢNH [13 bài] 1 199. Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng, Thu đến đêm qua cảm vả mừng Một tiếng chày đâu đâm cối nguyệt,

[thiếu chữ đâu]

Khoan khoan những lệ thỏ tan vừng. 2 200. Dịp trúc còn khoe tiết cứng, Rày, liễu đã rủ tơ mềm. Lầu hồng có khách cầm xuân ở,

60

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Cầm ngọc tay ai dặng dõi thêm. 3 201. Dặng dõi bên tai tiếng quản huyền, Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn. Xuân xanh chưa dễ hai phen lại, Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên. 4 202. Tiếc thiếu niên qua, lật hẹn lành, Hoa hoa, nguyệt nguyệt luống vô tình. Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc, Ðầu bạc xưa nay có thủa xanh. 5 203. Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người, Thức xuân kể được mấy phen tươi ! Vì thu cho nhẫn đầu nên bạc, Chưa dễ ai đà ba bảy mươi. 6 204. Ba bảy mươi nào luống nhọc thân, Ðược thua đã biết sự vân vân ? Chớ cười hiền trước rằng dại, Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân. 7 205. Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm, Những lệ xuân qua tuổi tác thêm. Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ, Một phen liễu rủ một phen mềm. 8 206. Liễu mềm rủ, nhặt đưa hương, Hứng bận lầu thơ, khách ngại nương. Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

61

VIỆN VIỆT-HỌC

Một phen tiếc cảnh, một phen thương. 9 207. [為 vì]

Thương cảnh vỉ nhân cảnh hữu tình, Huống chi người lạ cảnh hoà thanh. Xuân ba tháng thì thu ba tháng, Hoa nguyệt đon rùng mấy phút lành.

10 208. Loàn đơn ướm hỏi khách lầu hồng, Ðầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng. Ngoài ấy dù còn áo lẻ, Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng. 11 209. Ba xuân thì được chín mười ngày,

[mươi]

Sinh vật lòng trời chẳng tầy. Rỉ bảo đông phong hời hợt ít, Thế tình chớ tiếc dửng dưng thay. 12 210. Lầu xanh từ thấy khách thi nhân, Vì cảnh, lòng người tiếc cảnh xuân. Mới trách thanh đồng tin diễn đến, Bởi chưng hệ chúa Ðông quân. 13 211. [Ðâu đâu cũng chịu lệnh Ðông quân]

Ðâu đâu cũng lệnh đồng quân, Nào chốn nào, chẳng gió xuân. Huống lại vườn hoa còn hoa trúc cũ, Chồi thức tốt lạ mười phân.

XXII. THỦY TRUNG NGUYỆT 212. Nguyệt trong đáy nước, nguyệt trên không, Xem ắt lầm một thức cùng.

62

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Hải Nhược chiết nên cành quẽ tử, Giang phi chiếm được giấc thiềm cung. Thu cao, thỏ ướm thăm lòng biển, Vực lạnh, châu mừng thoát miệng rồng. Ðiệu khiếp thiên nhan chăng nỡ tiễn, Lui thuyền lẳng đẳng ở trên dòng. XXIII. THỦY THIÊN NHẤT SẮC 213. Trời nghi ngút, nước mênh mông, Hai ấy cùng xem một thức cùng. Hương thỏ chìm tăm hải nhược, Nhà giao dãi bóng Thiềm cung. Bút thiêng Ma Cật tay khôn mạc, Câu khéo Huyền Huy ý chửa đông. Lẻ có chim bay cùng cá nhảy, Mấy hay kìa nước nọ hư không. C. HOA MỘC MÔN XXIV. MAI 214. Giữa mùa đông, lỗi thức xuân Nam chi nở, cực thanh tân. Trên cây, khác ngỡ hồn Cô-dịch, Ðáy nước, ngờ là mặt Thái Chân. Càng thủa già, càng cốt cách, Một phen giá, một tinh thần. Người người răng kém tài lương đống,

[浪 rằng]

Thửa việc điều canh, bội mấy phần. XXV. LÃO MAI 215. Hoa nảy, cây nên, thủa dốc sương, Chẳng tàn, chẳng cỗi, hãy phong quang. Cách song khác ngỡ hồn Cô-dịch, Thoáng bóng in nên mặt Thọ Dương. Ðêm có mây, nào quyến nguyệt, Ngày tuy gió, chẳng bay hương.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

63

VIỆN VIỆT-HỌC

Nhờ ơn vũ lộ đà no hết, Ðông đổi dầu đông hãy một đường. XXVI. CÚC 216. Người đua nhan sắc thủa xuân dương, Nghỉ chờ thu, cực lạ nường. Hoa nhẵn rằng, đeo danh ẩn dật, Thức còn phô, bạn khách văn chương. Tính tình nào đoái bề ong bướm, Tiết muộn chẳng nài thửa tuyết sương. Dầu thấy xuân lan cùng lọn được, Ai ai đều có mỗ mùi hương. XXVII. HỒNG CÚC 217. Cõi đông cho thức xạ cho hương, Tạo hoá sinh thành khác đẳng thường. Chuốt lòng son chăng bén tục, Bền tiết ngọc kế chi sương. Danh thơm Thượng uyển còn phen kịp, Bạn cũ đông ly ắt khá nhường. Miễn được chúa tiên yêu chuộng đến, Ngày nào khá, ấy trùng dương. XXVIII. TÙNG [3 bài] 1 218. Thu đến cây nào chẳng lạ lùng, Một mình lạt thủa ba đông. Lâm tuyền ai rặng già làm khách, Tài đông lương cao, ắt cả dùng.

[đống] 2

219. Ðống lương tài có mấy bằng mày, Nhà cả đòi phen chống khoẻ tay. Cội rễ bền, đời chẳng động, Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.

64

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

3 220. Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày, Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay. Hổ phách, phục linh nhìn mấy biết, Dành, còn để trợ dân này. XXIX. TRÚC [3 bài] 1 221. Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình, Ưa mi vì bởi tiết mi thanh. Ðã từng có tiếng trong đời nữa, Quân tử ai chẳng mảng danh ? 2 222. Danh quân tử, tiếng nhiều ngày, Bảo khách tri âm mới biết hay. Huống lại nhưng nhưng sinh biến tục, Trượng phu tiết cứng khác người thay. 3 223. Trượng phu tiết cứng khác người thay, Dưỡng dỗ, trời có ý vay. Từ thủa hóa rồng càng lạ nữa, Chúa xuân gẫm càng xưa thay. XXX. MAI [3 bài] 1 224. Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi, Ưa mi vì tiết sạch hơn người. Gác đông ắt đã từng làm khách, Há những Bô Tiên kết bạn chơi. 2 225. Tiên Bô kết đã bấy thu chầy,

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

65

VIỆN VIỆT-HỌC

Ngẫm ngợi nhường bằng mếch trọng thay. Lại có một cành ngoài ấy lẻ, Bóng thưa ánh nước động người vay ! 3 226. Bóng thưa ánh nước động người vay ! Lịm đưa hương một nguyệt hay. Huống lại bảng xuân xưa chiếm được, So tam hữu chẳng bằng mày. XXXI. ÐÀO HOA [6 bài] 1 227. Một đoá hoa đào khéo tốt tươi,

[đào hoa]

Cách xuân mơn mởn thấy xuân cười. Ðông phong ắt có tình hay nữa, Kín tiễn mùi hương dễ động người. 2 228. Ðộng người hoa khéo tỏ tinh thần, Ít bởi vì hoa, ít bởi xuân. [停 đừng]

Dẽ sử chim xanh rình chuốc lối, Bù trì đã có khí hồng quân.

3 229. Khí hồng quân hãy sá tài qua, Chớ phụ xuân này chớ phụ hoa. Hoa có ý thì xuân có ý Ðâu đâu cũng một khí dương hoà. 4 230. Khí dương hoà há có tư ai, Năng một hoa này, nhẫn mọi loài ? Tính kể chỉn còn ba tháng nữa, Kịp xuân mã để má đào phai.

66

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

5 231. Má đào phai hết bởi xuân qua, Nẻo lại đơm thì liền luống hoa. Yển sở Dao-trì đà có hạn, Chớ cho Phương Sóc đến lân la. 6 232. Phương Sóc lân la đã hở cơ, Ba phen trộm được há tình cờ ! Có ai ướm hỏi tiên Vương-mẫu, Tín khá tin thì ngờ khá ngờ. XXXII. MẪU ÐƠN HOA 233. Một thân hoà tốt lại sang, Phú quí âu chăng kém hải đường. Lai láng lòng thơ ngâm chửa đủ, Ngoài nương tuyền ngọc, triện còn hương. XXXIII. HOÀNG TINH 234. Ðất dư dưỡng được khóm hoàng tinh, Cẩu phương lành, để dưỡng mình. [𨇜 đủ]

Ai rặng túi thày chăng tủ thuốc, Hay vườn đã có vị trường sinh.

XXXIV. THIÊN TUẾ THỤ 235. Cây lục rờn rờn bóng lục in, Xuân nhiều, tuổi đã kể dư ngàn. Ngày ngày đã có tiên làm bạn, Ðưa thuốc tiên lai chẳng phải xin. XXXV. BA TIÊU 236. Tự bén hơi xuân tốt lại thêm, Ðầy buồng lạ, màu thâu đêm.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

67

VIỆN VIỆT-HỌC

Tình thư một bức phong còn kín, Gió nơi đâu gượng mở xem. XXXVI. MỘC CẬN 237. Ánh nước hoa in một đoá hồng, Vẫn nhơ chẳng bén, bụt là lòng. Chiều mai nở, chiều hôm rụng, Sự lạ cho hay thuyết sắc không. XXXVII. GIÁ 238. Viện xuân đầm ấm nắng sơ soi, Áo tế hung hung thủa mặc thôi. Ăn nước kìa ai được thú, Lần từng đốt mới hay mùi. XXXVIII. LÃO DUNG 239. Tìm được lâm truyền chốn dưỡng thân, Một phen xuân tới một phen xuân. Tuy đà chưa có tài lương đống, Bóng cả như còn rợp đến dân. XXXIX. CÚC 240. Nào hoa chẳng bén, khí đầm hâm ? Có mấy bầu sương nhị mới đâm. Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn, Cho hay thu muộn tiết càng thơm. XL. MỘC HOA 241. Trời sinh vật, uốn bằng người, Nếu được thợm tho thiếu tốt tươi.

[thơm]

Ít có hay, đòi thửa phận, Chẳng yêu thì chớ, nỡ chi cười. XLI. MẠT LỴ 242. Mài son bén phấn hây hây,

68

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Ðêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay. Mấy kẻ hồng nhan thời bạc phận, Hồng nhan kia chớ cậy mình thay. XLII. LIÊN HOA 243. Lầm nhớ chẳng bén tốt hoà thanh,

[淋洳 Lấm nhơ]

Quân tử ham, nhân được thửa danh.

[堪 kham]

Gió đưa hương đêm nguyệt tĩnh, Trinh làm của, có ai tranh. XLIII. HOÈ 244. Mộng lành này nảy bởi hoè trồng, Một phút xuân qua một phút trông, Có thủa ngày hè giương tán lục, Ðùn đùn bóng rợp cửa tam công. XLIV. CAM ÐƯỜNG 245. Thấy bóng cam đường nhớ Thiệu-công, Ðất dư dời được bạn cùng thông. Bút thơ đã chép hương còn bén, Ngâm ngợi nào ai chẳng động lòng. XLV. TRƯỜNG YÊN HOA 246. Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân, Trời cho tốt lạ mười phân. Ngày chầy điểm đã phong quần đỏ, Lửa tư mùa, một thức xuân. XLVI. DƯƠNG 247. Chiếm được thiều quang chín mươi, Dày dày hoa nở tốt hoà tươi. Ðông phong có ý bù trì nữa, Một phút xuân là một động người.

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

69

VIỆN VIỆT-HỌC

D. CẦM THÚ MÔN XLVII. LÃO HẠC 248. Gẫm hay sự thế nhẹ bằng lông, Ăn uống chẳng nài bổng Vệ-công. Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch, Non xuân từng bạn khách ăn thông. Cánh xâm bạch tuyết mười phần bạc, Ðính nhiễm đan sa chín chuyển hồng. Ngàn dặm trời, dầu đủng đỉnh, Kham cười anh vũ mắc chưng lồng. XLVIII. NHẠN TRẬN 249. Nước dẫy trào cường cuối bãi đầy, Làm kỳ, chính khéo nên bầy. Ðàn chìm đạn ngọc sao bắc, Phất dõi cờ lau gió tây. Thu, phát lệnh nghiêm, hành đỗ kíp, Sương thanh bảng nhặt, tiếng kêu chầy. ... Tử tái đường nghèo lòng mã ngây. XLIX. ÐIỆP TRẬN 250. Làm sứ đi thăm tin tức xuân, Lay thay cánh nhẹ mười phân. Nội hoa lớp lớp vây đòi hỏi, Doanh liễu khoan khoan khéo lữa lần. Thục-đế để thành giéo giắt, Phong-vương đắp lũy khóc lăn. Chúa xuân giáo tập dư ba tháng, Mảng cầm ve, mấy đỗ quân. L. MIÊU 251. Lọ vằn sinh bởi mãi phương tây, Phụng sự Như-lai trộm phép thày. Hơn chó được ngồi khi diện bếp,

70

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

VIỆN VIỆT-HỌC

Tiếc hùm chăng bảo chước leo cây. Ði, nào kẻ cấm buồng the kín, Ăn, đợi ai làm bàn soạn đầy. Khó mấy sang, chẳng nỡ phụ, Nhân chưng giận chuột phải nuôi mày. LI. TRƯ 252. Dài hàm, nhọn mũi, cứng lông, Ðược dưỡng vì chưng có thửa dùng. Lỗi hoà đàn, tinh bắc đẩu, Lang một điểm, thụy Liêu-đông. Chân khi mặt nước chưa hay lạt, ... Tiện, chẳng hay bề biến hoá, Giương hai con mắt lại xem rồng. LII. THÁI CẦU 253. Truyền tin chẳng lọ nhọc thanh đồng, Cỗi lòng xuân làm sứ thông. Năm thức phây phây, đuôi phượng mở, Tám lòng im ỉm, chữ nhàn phong. Dõi qua ngàn Liễu vương tơ bạc, Bay tiễn lòng hoa động bóng hồng. Nẻo đến, tin đâu đều hết có, Nàng ngồi ai nỡ để tay không. LIII. NGHIỄN TRUNG NGƯU 254. Ðầm chơi biển học đã nhiều xuân, Dời đến trên yên nằm ngoái chân. Mày nọ hồm chiều lòng mặc khách,

[眉某歆遥 Mày mỗ hôm dao]

Kỳ mài ngày tháng của thi nhân. Khoẻ cày ruộng thánh đà nhiều khảm, Ðược dưỡng cao văn vô số phần. ... ... HẾT TẬP THƠ CHỮ NÔM

QUỐC ÂM THI TẬP TVG-PTĐ

71