ĐỊA MẪU CHƠN KINH 地母真經 Kinh Dia Mau

ĐỊA MẪU CHƠN KINH 地母真經 Địa mẫu chân kinh 地母妙經 Địa Mẫu diệu kinh 地母妙經, 地母真經, 地母至尊總 廟, 寶湖宮, 虛空地母 Địa mẫu diệu kinh , địa m

420 121 3MB

Vietnamese Pages 63 [113]

Report DMCA / Copyright

DOWNLOAD FILE

Polecaj historie

ĐỊA MẪU CHƠN KINH 地母真經 Kinh Dia Mau

Citation preview

ĐỊA MẪU TỪ BI

ĐỊA MẪU CHƠN KINH Thân tại vân sơn đạo tại Cung, 身在雲山道在躬. Uyên nhiên thần khí tối trầm hùng, Trứ thư thanh đảo nghiêm trì ngoại, Chỉ viêm Đan Điền tĩnh thủ trung, Nhân cánh xưng vi đại viện trường, Ngã thiên hý hoán trường thành công, Phiên li "đạo đức" bằng tiên chú, 藩籬《道德》憑箋注 Khế ngộ chư kinh ngữ tổng đồng. —— Thiên Tiên Bạch Quỳnh Quản bái thư 天仙白瓊琯拜書 —— "Đạo đức" - Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Đức Kinh | ||| ||||| V V V ----------------------------------------------------藩籬《道德》: phiên li "đạo đức": Hàng rào quanh nhà "đạo đức". Khế ngộ chư kinh ngữ tổng đồng. —— Thiên Tiên Bạch Quỳnh Quản bái thư ——

-----------------------------------------------------

_1_

ĐỊA MẪU TỪ BI

_2_

ĐỊA MẪU TỪ BI

_3_

ĐỊA MẪU TỪ BI

TỰ LUẬN: Quang Tự cửu niên, chánh ngoạt, sơ cửu nhật, Thiểm Tây Tỉnh, Hớn Trung Phủ, Thành Cố Huyện, Địa Mẫu miếu, Kim Mẫu phi Loan truyền kinh. (Đời nhà Thanh, vua Quang Tự, năm thứ 9, nhằm Tiết tháng Giêng, ngày mùng 9, tại nơi tỉnh Thiểm Tây, phủ Hớn Trung, huyện Thành Cố, đức Địa Mẫu ngự chim Loan hiện xuống tận Miếu, Ngài giáng Cơ bút truyền ra kinh này). NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (Đức Địa Mẫu ngự trên cõi Thượng Tầng tối cao, làm quyển Chơn Kinh để khuyên răn, dưỡng dục và bảo toàn tánh mạng cho tất cả người đời). ĐỐT HƯƠNG: Khói hương xông thấu mấy tầng xanh, Rốt ráo tâm con bổn nguyện lành, Trên khói hương này xin Mẫu ngự, Chứng minh con trẻ tấm lòng thành. NAM MÔ HƯƠNG CÚNG DƯỜNG ĐỊA MẪU CHỨNG MINH LỄ PHẬT: Kính lạy Phật từ bi, quảng đại, _4_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Vì chúng sanh muôn loại đảo điên, Luân hồi khổ não triền miên, Mới dùng phương pháp giải phiền nơi tâm. LỄ PHÁP: Kính lạy pháp, nguồn ân chưa trả, Nẽo quang minh mô tả rõ ràng, Vì đời lắm kẻ lầm than, Nên thuyền Bát Nhã sẵn sàng đợi đưa. LỄ TĂNG: Kính lạy Tăng, là người chí cả, Thay Thế Tôn hoằng hóa đạo mầu, Vô minh nên mới lo âu, Rọi đường cứu khổ, dẫn đường chúng sanh. •Nam mô Hội Thượng Phật cảm ứng chứng minh. (1 lạy) •Nam mô Tam Bảo đạo tràng cảm ứng chứng minh. (1 lạy) •Nam mô con nhất tâm đảnh lễ đức Hoàng Mẫu cứu độ chúng sanh. (1 lạy) •Nam mô con nhất tâm đảnh lễ Phổ Đà Sơn Nam Hải Hội Thượng Phật, Bồ Tát cảm ứng chứng minh. (1 lạy) •Nam mô con nhất tâm đảnh lễ Tổ Thầy cảm ứng chứng minh. (1 lạy) _5_

ĐỊA MẪU TỪ BI

PHỤC NGUYỆN: Con tụng Hoàng Mẫu chơn kinh, cầu nguyện Tam cõi cộng đồng, Thánh Thần Tiên Phật nghe nguyện này con xin được an vui hỷ lạc, thanh tịnh trang nghiêm, quốc thới dân an, thế giới thái bình, chúng nhân an lạc. (1 lạy) Con cầu cho nhân loại chúng sanh được cơm no áo ấm, phước lộc thọ đủ đầy, thoát ách, tiêu tai, bệnh tật tiêu trừ, đồng đặng kiết tường, họa vô xâm nhiễm. (1 lạy) Con cầu nguyện cho Phật tử nam nữ trẻ già lớn bé, trên non, dưới thế, theo Mẹ tu hành, tinh tấn, tâm lành sáng suốt, hiếu đạo vẹn toàn, đến ngày thành Tiên, Đạo tâm bất thối. (1 lạy) Con cầu nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ, ông bà cha mẹ, lục thân quyến thuộc, âm siêu dương thới, lãnh đặng lời của Mẫu, dứt tâm mê muội, xa lìa tội ác, hồn linh siêu thoát, về nơi Tây Trúc, an vui Tiên Đạo. (1 lạy) Con thành tâm khẩn nguyện, nhờ oai linh nhiệm mầu của Mẹ Kim Quang, chuyển vận gia đình hưng thạnh, quyến thuộc tăng phước, hoàn viên, bổng lộc miên trường, sở nguyện sở cầu như ý. (1 lạy) _6_

ĐỊA MẪU TỪ BI

•Nam mô Diêu Trì Vương Mẫu cảm ứng chứng minh. (1 lạy) •Nam mô Phổ Đà Sơn Quán Âm Nam Hải cảm ứng chứng minh. (1 lạy) •Nam mô Diêu Trì Cung Hội Thượng Mẫu cảm ứng chứng minh. (1 lạy) BÁI NIỆM: Mẫu từ cõi Thượng Thiên giáng độ, Cứu quần sanh bao cảnh si mê, Mẫu ơi! Con luống tràn trề, Niềm riêng! Con muốn Mẫu về bên con, Nay thường nhựt, lòng con xin nguyện: ... *** Nguyện cầu bá tánh an vui, Cỏ cây tươi thắm, xanh tươi bạt ngàn, Cầu xin gia đạo đôi đàng, Tốt tươi an hưởng, suối vàng yên thân, Cúi xin Mẫu, thân này tự tại, Nghĩa áo cơm con gởi Từ tâm, Nguyện cầu Mẹ điểm Linh Sơn, Ngàn năm cầu nguyện công ơn Mẫu tầy. Tây Thiên, Mẹ chứng lời này, Nguyện xin Mẫu giáng phước này cho con, Từ nay con nguyện vuông tròn, Tu nguyền, hướng thiện, lòng con phụng thờ...

_7_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nam mô Vô-Thượng Hư-Không Ðịa-Mẫu Huyền-Hóa Dưỡng-Sanh Bảo-Mạng Từ-Tôn Ðại-Từ-Tôn. (24 lạy) XƯNG TÁN ĐỊA MẪU: Địa Mẫu, đấng tối cao giác ngộ, Điển linh quang tế độ chúng sinh, Hỡi ai chớ có lạc lầm, Lời vàng châu ngọc, chỉ rành nẻo tu, Cõi trần thế mịt mù tăm tối, Phải nghe lời Mẹ thuyết Chơn kinh, Chớ ham vật chất lụy phiền, Sớm mau thức tỉnh, Mẹ ban phước lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH. (3 biến) TÂM NGUYỆN DÂNG LÊN MẪU Nhớ ơn Ðịa Mẫu thâm ân, Chúng con cầu nguyện chuyên cần Mẫu thương. Chúng con quỳ trước hai hàng, Cùng dâng tâm nguyện Mẫu ban độ trì, Kính lạy Mẹ cõi vô vi, Mưa nhuần bốn Bể, Mẹ vì chúng sanh. Chúng con lạc nẻo tu hành, Bơ vơ trần tục, thác ghềnh chông gai. Từ thuở bé, tấm thân lạc lõng, Sống giữa trần ô trược, đa đoan. _8_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Mẫu ơi! Xin Mẫu đôi hàng, Tâm nguyền! Con đã chứa chan khẩn cầu. Vì đời lạc nương dâu, cồn cát, Cuộc trần mê xô xát đắng cay. Mẫu ơi! Mẫu có nào hay, Tấm thân con trẻ an bày đau thương... NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH. (3 biến) CÚNG HƯƠNG: Đốt nén nhang trầm đến Diêu Cung, Thành tâm cầu nguyện đức Từ Bi, Trên khói hương này xin Mẹ Ngự, Cảm ứng chứng minh tấc lòng thành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH. (3 biến)

SÁM KINH ĐỊA MẪU DÂNG ĐĂNG: Dâng đuốc thiêng, thành tâm kỉnh Mẫu, Ngọn linh đăng soi thấu mười phương, Điển quang tỏa ánh Chiêu Dương, Cầu xin Từ Mẫu Tây Phương chứng Đàn, Mẹ giáng thế, độ an non nước, Chuyển huyền linh, ban phước vạn dân, Nguồn thương, sầu đọng bâng khuâng, Nhìn đăng, lòng tưởng Mẹ gần bên con, _9_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Xưa Mẫu ngự chim Loan tại miếu, Tỉnh Thiểm Tây, huyền diệu ứng linh, Bút cơ, Mẹ thảo tâm kinh, Lời châu chép lại tâm tình Mẫu thương, Nhìn biển cả trùng dương nước biếc, Tiếng khổ sầu tha thiết, lòng đau, Mẹ trông từng lượn sóng ào, Bao nhiêu sóng lượn, nghẹn ngào bấy nhiêu, Cảnh Dương trần, gặp nhiều gian khổ, Mẹ sáng khai hóa độ khắp nơi, Núi sông, vũ trụ, đất trời, Chính do Hoàng Mẫu tạo đời an vui, Con trẻ nguyện sớm chiều tu niệm, Ngày lẫn đêm lo kiểm hạnh con, Dâng đăng, Mẹ chứng lòng son, Vạn dân bá tánh, nước non thanh bình. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

DÂNG HƯƠNG: Ngày kỷ niệm trăng Mười, thập Bát, Gió đông về, ngào ngạt nguồn thương, Chốn trần, trẻ dại dâng hương, Thỉnh cầu từ Mẫu, Tây Phương chứng đàn, Dâng nén hương, lời vàng cung kỉnh, Tiếng trẻ thơ nguyện thỉnh Mẹ hiền, Lạy cầu vọng thấu Cung Tiên, Nơi Tây Vương Mẫu diệu huyền chứng minh, _10_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Mẹ thương con, thâm tình muôn thuở, Đạo hoằng khai truyền mở khắp nơi, Gắng tu thoát tục, xa đời, Quê Tiên chốn cũ là nơi trở về, Nhìn quang cảnh sơn khê non nước, Cõi giới ba, hưởng phước Mẹ ban, Chính do Hoàng Mẫu chỉnh an, Độ cho sanh chúng một đàng chánh tu, Làn khói bạc ngút mù bay tỏa, Tâm hương thành hiện rõ Diêu Cung, Đài hương Mẹ ngự không trung, Thức tâm kẻ thế soi chung gương hiền, Tam nhựt Mậu, cố siêng bái Mẫu, Tiếng chuông ngân, gợi nỗi nhớ thương, Con quỳ dâng nén tâm hương, Lạy Mẹ phủ đức, thập phương an lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

DÂNG TRẦM: Nhìn làn khói trầm hương bay tỏa, Nhớ Mẫu hiền lệ nhỏ dòng châu, Đàn con tha thiết nguyện cầu, Mẫu Từ phủ điển nhiệm mầu chứng minh, Chốn trần miền cung nghinh đại lễ, Kỷ niệm ngày giáng thế Từ Tôn, Thượng tầng, Mẹ phủ Càn Khôn, Triển khai hoằng đạo, pháp môn hạnh từ, _11_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Đọc kinh Mẫu lòng như xao xuyến, Gởi tâm thành thăm viếng Mẫu thân, Chuông chùa vang tiếng xa ngân, Chạnh lòng con trẻ tuôn dòng lệ sa, Khói hương trầm thiết tha theo gió, Áng mây lành hiện rõ huyền vi, Con nguyền kíp kíp tu trì, Nương về theo bóng Từ bi Mẫu Hoàng, Cầu lệnh Mẹ chỉnh an non nước, Điển Mẫu Từ ban phước chúng sanh, Trần gian biết nẻo tu hành, Nhờ đèn trí huệ phúc lành Mẹ ban, Tầm chánh giác, đạo vàng rực rỡ, Hạt Bồ Đề nẩy nở rừng cây, Am thiền nối nghiệp thang mây, Điển thiêng Mẹ chứng, nhựt nay kỉnh Đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

DÂNG HOA: Hoa tươi thắm, kính dâng Từ Mẫu, Gió hương lành, nhẹ thổi mười phương, Dập đầu lạy Mẹ xót thương, Chứng lòng con trẻ cúng dường dâng hoa, Lời vang cầu thiết tha ai oán, Chốn dương trần tợ áng phù vân, Chúng sanh đau khổ vô ngần, Thành tâm lạy Mẹ gội lần tội xưa, _12_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Ngày Kỵ Mậu, sớm trưa bái Mẫu, Tiếng chơn thành vọng thấu Diêu Cung, Gắng tu noi chí bá tùng, Bồ Đề hạnh nguyện, thơm chung hương lành, Điển huyền linh phủ quanh bao khắp, Nhớ Mẫu hiền con chắp tay cầu, Lạy Mẹ độ hết năm Châu, Cầu xin sanh chúng sớm hầu Diêu Cung, Người chốn thế, hiếu trung trọn giữ, Hội Long Hoa Mẫu Tử tương phùng, Hương lành thơm ngát lạ lùng, Bồ Đề nở rộ tại Cung Diêu Trì, Hoa thơm ngát, con quỳ dâng lễ, Lạy Mẫu thương giáng thế chứng minh, Tay ngà dâng đóa hoa xinh, Thỉnh cầu Mẹ giáng điển linh chứng Đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

DÂNG QUẢ: Quả tươi xanh tâm thành cung kỉnh, Tiếng trẻ khờ nguyện thỉnh Từ Tôn, Điển linh phủ khắp Càn Khôn, Triển khai đại Đạo, tiếng đồn vang xa, Tụng kinh Mẫu, gia gia an ổn, Mẹ giáng trần, hỗn độn sơ khai, Lời châu ghi lại trần ai, _13_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Là do huyết mạch phi tài Từ Tôn, Oai linh Mẫu bao gồm vũ trụ, Dưỡng nuôi con hấp thụ điển thiêng, Phước, tài, lộc, thọ, triền miên, Dân lành, nước thạnh, nhà yên thanh bình, Tam nhựt Mậu, trì kinh Địa Mẫu, Chúng sanh đều đổi số nhàn thanh, Mùa màng sung túc tươi xanh, Quả hoa thơm ngát hương lành từ bi, Thâm ân Mẹ, khắc ghi kinh sử, Kỷ niệm ngày Mẹ ngự không trung, Dập đầu bái tạ Vương Cung, Độ an sanh chúng, tao phùng Long Hoa, Kính lạy Mẫu, thiết tha lời trẻ, Dâng quả tươi, thỉnh Mẹ chứng tri, Dập đầu lạy đức Diêu Trì, Điển linh Mẹ phủ, cứu nguy dân lành. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

DÂNG THỦY: Cung kỉnh dâng thủy thanh thơm ngát, Nhớ trăng Mười, thập Bát, hằng niên, Đúng ngày giáng thế Mẫu hiền, Thủy thanh, bát ngọc, khẩn nguyền cung nghinh, Đàn con trẻ quỳ xin Mẹ chứng, _14_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Độ dân lành bền vững tâm tu, Sơn khê rảo bước ngao du, Vào nơi biển Thánh, rừng nhu tu hiền, Dâng thủy thơm, kiền thuyền vọng bái, Điển Mẫu Từ, phủ rải khắp nơi, Mẹ thương dưỡng dục khuyên đời, Ngự nơi thượng cõi, ban lời ngọc châu, Mẹ truyền pháp nhiệm mầu phản chiếu, Cứu đàn con tận hiếu, tận trung, Nguồn thương Mẹ phủ ngàn trùng, Suối lòng ngào ngạt ban chung con lành, Chính Mẹ tạo non xanh tươi thắm, Biển sông sâu thăm thẳm trùng khơi, Hoằng khai đại Đạo khắp nơi, Kể từ vô thỉ đến đời Hậu Thiên, Tâm kinh Mẫu, lời khuyên lai láng, Điển huyền linh tỏa sáng mười phương, Tay dâng bát ngọc, trà hương, Thành tâm lạy Mẹ xót thương chứng Đàn. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH * * *

ÐỊA MẪU CHƠN KINH Phủ Hớn Trung nơi huyện Thành Cố, Tỉnh Thiểm Tây miếu cổ ứng linh, Thượng tầng tỏa ánh quang minh, _15_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Chim Loan Mẫu ngự truyền kinh răn đời. Kim ngôn Mẹ đây lời mạch huyết, Ðức Từ Tôn tha thiết khuyên con, Hiếu trung giữ vẹn cho tròn, Mẹ hiền phủ điển bảo toàn chúng sanh. Tam nhựt Mậu, tâm thành kỉnh Mẫu, Tấm lòng son vọng thấu Diêu Cung, Gia gia sum họp trùng phùng, Dân an quốc thới, hưởng chung thanh bình. Mùa màng được tươi xanh, sung túc, Mẹ độ con từng phút từng giây, Núi sông vũ trụ đó đây, Chính do Hoàng Mẫu dựng gầy tạo nên. Linh điển Mẹ dưới trên, phân rõ, Tâm chơn kinh Mẹ tỏ lời châu, Hoằng khai đại Đạo nhiệm mầu, Hóa sanh bốn Biển, năm Châu tươi nhuần. Kim Mẫu ngự thượng tầng, độ thế, Ðiển Chơn linh, phước huệ rải ban, Tâm kinh Mẫu dạy rõ ràng, Con lành hiếu thảo, Đàn tràng cung nghinh. Phước, lộc, thọ, hiển vinh do Mẫu, Trọn đủ thời Kỵ Mậu hằng niên, Dân an, nước thạnh, nhà yên, Lời châu, Mẫu dạy gắng chuyên tu trì. Thơ thâm diệu huyền vi Cơ bút, Mẹ truyền kinh dưỡng dục chúng sanh, Xưa vua Bàn Cổ phong danh, _16_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Diêu Trì Kim Mẫu hóa sanh muôn loài. Chơn linh Mẫu xét soi vũ trụ, Ðiển âm dương kết tựu anh nhi, Thượng tầng Mẫu ngự phương phi, Phân ra Thiên Ðịa, trị vì chúng sinh. Ðịa Mẫu truyền Chơn kinh tâm huyết, Khí âm dương hội hiệp cùng nhau, Mưa hòa, gió thuận, tươi màu, Hóa sanh nhơn loại ngạt ngào Chơn thân. Vậy ai mới bước lần đường Đạo, Phải giữ lòng hiếu thảo trì kinh, Lời châu Mẹ dạy huyền linh, Hoàng Thiên xá tội, hiển vinh thanh nhàn. Cầu lịnh Mẹ bảo toàn sanh chúng, Ðộ nhơn sanh giữ đúng hạnh Tiên, Từ đây Thiên Ðịa phân riêng, Âm dương chơn khí linh nguyên chẳng rời. Nhựt, nguyệt, tinh, phương trời sáng tỏa, Máy huyền vi hiện rõ thần thông, Mẹ phân nam bắc tây đông, Bốn phương tám hướng bao vòng càn khôn. Ðiển thiêng Mẹ bảo tồn vĩnh cửu, Chốn Trung Ương, Mẹ thủ Địa Châu, Linh quang chiếu sáng nhiệm mầu, Thiên Tiên bảo dưỡng gồm thâu nhơn lành. Phu quân Mẫu, trường sanh bất lão, Tài cao minh sáng tạo huyền vi, Thiên lung, địa á diệu kỳ, _17_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Tri âm phối hợp phục quy Diêu Ðài. Thiên Ðịa lập, âm lai, dương khứ, Khí thần giao gìn giữ điển linh, Ðất trời do tạo hóa sinh, Pháp luân thường chuyển siêu hình căn nguyên, Chính Mẹ tạo tôi hiền, chúa Thánh, Phủ điển linh chơn tánh, tâm thanh, Chẳng ngừng hóa hóa sanh sanh, Thiên Can thường chuyển, vận hành Địa Chi. Thần với khí tựu thì thai Thánh, Mẹ cưu mang canh cánh thập niên, Tình thâm mẫu tử thiêng liêng, Mười thu đúng nhựt; chia riêng: quẻ, hào. Trong bát quái phân vào tám hướng, Tám quẻ do mỗi hướng định ra, Sáu hào một quẻ đó là, Ba trăm tám bốn tẻ ra các hào. Trúc cơ mãn nguyệt vào giờ đúng, Thập niên trường chuyển dụng Thánh thai, Minh Quân xuất thế trần ai, Sáu vì Thiên tử phi tài huyền quang. Mẹ phân vua Thiên Hoàng con trưởng, Ðến Ðịa Hoàng, Mẹ thưởng thứ hai, Nhơn Hoàng, tam đệ thiên tài, Còn ba vị nữa, phân rày sau đây. Vua Phục Hy, ngài hay biến hóa, Bát quái phân phát họa hiển linh, _18_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Chỉ rành tám hướng thinh thinh, Âm dương vũ trụ quang minh phân bày. Vua Thần Nông phi tài ngũ cốc, Sắc lịnh gieo châu ngọc khắp nơi, Ðó là hạt giống của Trời, Sanh ra lúa gạo giúp đời an khang. Vua Hiên Viên tạo ban y phục, Ðem ấm no, hạnh phúc vạn dân, Lưu truyền cơm áo chốn trần, Ðể cho người thế tâm thân thanh nhàn. Vũ trụ do Mẫu Hoàng xuất phát, Mẫu tạo ra Bồ Tát, Thần, Tiên, Thượng tầng, bao phủ điển thiêng, Chẳng rời xa khỏi Mẫu hiền dưỡng sanh. Nhìn biển cả, trời thanh, nước biếc, Khắp bốn mùa, tám tiết trở xoay, Gió ngàn, tỏa lượn tầng mây, Hóa sanh nhơn loại, cỏ cây, thú cầm. Có ngũ nhạc bổng trầm ngân trỗi, Khắp muôn nơi Từ Mẫu dưỡng sanh, Các đời Vương Đế đại danh, Từ trong thân Mẫu trưởng thành mà ra. Danh lam có năm tòa thắng cảnh, Chốn lâm sơn, tuyết lạnh, sương rơi, Cỏ cây, cổ thụ sống đời, Sắc dân trăm họ do nơi Mẫu thành. Năm giống lúa tươi xanh vun dưỡng, Sáu thứ gạo, dành thưởng nhơn sinh, _19_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nhân dân no ấm, hiển vinh, Sống nhờ điển Mẹ huyền linh phủ đầy. Khi lìa thế, gởi thây thân Mẫu, Sự hóa sanh dời đổi vô thường, Thân Mẹ là chỗ tựa nương, Từ Tôn Ðịa Mẫu nguồn thương ngập tràn, Nào châu, quận, thôn, làng, tỉnh, huyện, Kìa lâu đài, cung điện nguy nga, Am, chùa, quán, xá lập ra, Hiền Thần, Tiên, Thánh, Mẹ đà thưởng phân. Chư Phật đắc kim thân do Mẫu, Cả trân châu ngọc bửu đó đây, Thiếu chi kẻ ước việc này, Lòng tham mơ tưởng, mấy ai đạt thành. Loại kim khí bạc vàng quí báu, Tất cả do Mẫu tạo xuất ra, Vương Hầu, vạn quốc, gia gia, Cũng do lịnh Mẹ ban ra tôn sùng. Người chốn thế hiếu trung hưởng phước, Bao huyền linh sau trước Mẹ ban, Dân an, quốc thới, thanh nhàn, Ðế Vương cung kỉnh Mẫu Hoàng Từ Tôn, Nước nào bị dập dồn chinh chiến, Cũng do nơi Mẫu chuyển phạt hành, Vậy ai nào biết đến danh, Huyền linh quang điển Mẹ dành đó đây. Có tạo lãnh the đầy lụa vải, Cùng quả hoa, rau cải, trái cây, _20_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nào là chua, ngọt, đắng, cay, Lúa ăn, thuốc uống, rừng cây ai tường. Hành, ớt, hẹ, gừng, đường, tiêu, tỏi, Khắp nhơn sinh ai khỏi bệnh đau, Hóa sanh linh dược nhiệm mầu, Cao lương, mỹ vị, thiếu đâu vật nào. Lại có giấm, chanh, dầu, tương, muối, Suối nào bằng nguồn suối tình thương, Mẹ ban trăm vạn mùi hương, Lao tâm tổn huyết đoạn trường vì con. Công lao Mẹ, bút son khó tả, Tình bao la biển cả khó hơn, Khổ đau Từ Mẫu chẳng sờn, Nỡ nào quên dứt nghĩa ơn cho đành. Vật ăn uống, Mẹ dành con đó, Sản phẩm do Mẹ hóa tạo ra, Cân đai, áo mão, phù hoa, Bạc tiền, vật dụng biến ra hằng ngày. Mẹ chẳng thấy một ai lòng tưởng, Thân Mẫu sanh ban thưởng khắp nơi, Vật chi chẳng sót trên đời, Mẫu không nghe có một lời nhớ thương. Trong vũ trụ, tuần hườn, tạo hóa, Do Mẫu sanh ra quả Địa cầu, Biến dành sáu ngã luân hồi, Biết bao sản vật, hoa màu tốt xinh. Kẻ thế đâu rõ tình thâm Mẫu, Dầu Hoàng Thiên khó nỗi sánh hơn, _21_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Trên trời mưa đổ từng cơn, Dưới đất Mẹ hóa huyền chơn phép mầu. Giòng mưa tuôn ngọt ngào cam lộ, Ngũ cốc dành hóa độ nhơn sanh, Cỏ cây tươi tốt hương thanh, Ðịa châu thấm giọt mưa lành phì nhiêu. Chính hơi nước thâu nhiều mạch huyết, Bao tinh vi sương tuyết giá băng, Ðài mây gom tựu, phủ giăng, Gặp luồng quang điển biến tan mây liền. Mưa tuôn xuống trần miền tỏa khắp, Cù rồng kia trốn nấp ngàn sông, Lãnh phần vận chuyển gió giông, Mẹ truyền hoán võ, hô phong, ứng hầu. Cù rồng ở xứ nào chẳng có, Ẩn biển sâu, làm gió, chuyển mây, Ðều do lịnh Mẹ phán bày, Ơn trên chiếu triệu, dám rày cãi đâu. Muôn thu vẫn nằm sâu lòng đất, Mẹ dưỡng nuôi âm chất hoằng khai, Nhọc nhằn nào quản đắng cay, Ðiển quang huyền diệu, đêm ngày dưỡng sanh. Chốn dương trần, con lành tọa hưởng, Bao nhiệm mầu, Mẹ thưởng hồng ân, Tất cả do lịnh Mẫu phân, Công dầy chẳng thấy người trần ghi tâm. Mẹ thương con, dạ thầm đau thắt, Chẳng bao giờ nhắm mắt nghỉ đâu, _22_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Ðiển quang nếu Mẹ rút thâu, Càn khôn, vũ trụ, Địa cầu tiêu tan. Khi cá Ngao trở ngang vùng vẫy, Thiên địa đành chịu phải rã đôi, Dương trần như thể bèo trôi, Cảnh đời trống rỗng, thảm sầu nạn tai. Ngoại Càn Khôn, Như Lai tạm ẩn, Chư Bồ Tát tàn lẫn biệt tin, Từ vua chúa đến quân binh, Sẽ đều tận diệt, nhơn sinh điêu tàn. Phương hướng đành tiêu tan tất cả, Như ở trong lò hỏa bị thiêu, Muôn loài vạn vật bao nhiêu, Phải đành chịu cảnh quạnh hiu, khổ sầu. Mẹ phán truyền lời châu, cao quý, Ai sưu tầm diệu lý quang minh, Tâm thành khảo sát chơn kinh, Thọ trì giảng nói chúng sinh hiểu rành. Từ Tôn chiếu điển lành ban phước, Sắc lịnh phê, người được hiển vinh, Phi tài huyền diệu cao minh, Mẫu Từ giáng bút ngọc linh chi truyền. Nhập vào tâm kẻ hiền sáng suốt, Chơn khí như ánh đuốc thiên nhiên, Mẫu cho phản bổn, hườn nguyên, Chơn thần đúng ngoạt, xuất liền chẳng sai, Tinh khí hiệp cho ai dưỡng tánh, Gắng tâm tu, hưởng cảnh thượng đài, _23_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Khai tâm, rung chuyển đạo ngay, Lý chơn, thông hiểu chớ rày bỏ qua. Cần quán tưởng sâu xa kinh Mẫu, Chớ khoe tài nông nỗi mà chi, Chơn kinh lịnh Mẹ khó bì, Quân thần văn võ chẳng khi lời vàng. Ðại Từ Tôn Mẫu Hoàng cao cả, Ân đức dày, vong ngã đành sao, Tao nhân, mặc khách, anh hào, Nông, thương, công, sĩ nỡ nào lãng ngơ. Không đền đáp, tôn thờ, cung kính, Nỡ vô tâm, chẳng kính Mẫu hiền, Thâm sâu, nghĩa cả thiêng liêng, Ðành lòng bội bạc Chơn truyền lời châu. Chánh pháp, đạo nhiệm mầu ai rõ, Giả đò như chẳng tỏ ngộ chi, Phụ ân Từ Mẫu Diêu Trì, Ðọa đày muôn kiếp, chẳng thì tái sanh. Muốn biết rõ tánh danh Địa Mẫu, Hãy lắng nghe lời Mẫu phân rành, Lão Bà hỗn độn hóa sanh, Thuở còn mờ mịt, trược, thanh, chưa tường, Thiên Ðịa chia âm dương chơn khí, Thập nhị muôn niên kỷ giáng lâm, Tuổi thọ chín ngàn sáu trăm, Thời gian xuất thế khổ tâm nhọc nhằn. Muôn ngàn năm, khuyên răn dạy dỗ, Ngày biệt ly, diệt độ chẳng ngờ, _24_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Mẫu Hoàng từ giã con thơ, Hóa thân chớp nhoáng, phút giờ chia tay. Hư không ngự mây đài, thượng cõi, Ðiển quang minh chiếu rọi khắp nơi, Huyền vi biến hóa, chuyển đời, Truyền kinh châu ngọc, bao lời thiết tha. Chẳng thấy ai lệ sa nhớ Mẫu, Chốn Trường Giang, gợi nỗi nhớ thương, Ngự thuyền lướt sóng trùng dương, Nào ai để dạ vấn vương, lòng sầu. Mẹ thương con, chẳng câu phiền trách, Lòng ước mong huyết mạch trùng phùng, Sớm về Điện ngọc Diêu Cung, Con lành cố gắng hiếu trung, tu hiền. Hội Tý Sửu, khai Thiên, tịch Ðịa, Vạn sự thành, hiếu nghĩa vi tiên, Chơn kinh Địa Mẫu diệu huyền, Hơn trăm tám chục câu, khuyên răn đời. Mỗi câu mỗi ý lời Mẹ thuyết, Cũng từ nguồn mạch huyết chảy ra, Gồm bao lời ngọc, thiết tha, Chẳng phải lầm lạc đâu, mà ngờ nghi. Khắp gia gia đều trì niệm mãi, Thì mùa màng, cây trái hoằng sai, Ấm no hưởng lạc trần ai, Cuộc đời chẳng bị nạn tai dập dồn. Ðiển quang Mẹ bảo tồn trường cửu, Ðộ con thơ hội đủ Diêu Cung, _25_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nếu ai chẳng tín, bất tùng, Mùa màng, ruộng rẫy, sâu trùng bọ ăn. Cuộc sống đành khó khăn, đau khổ, Nhân sinh lâm vào chỗ hiểm nguy, Không mong sống sót được gì, Ðại kiếp, thủy hỏa, phong phi, ngập tràn. Ðại Từ Tôn Mẫu Hoàng cho biết, Ðúng trăng Mười, vào tiết trời đông, Mẫu Từ xuất hiện, thần thông, Vào ngày thập bát, trần hồng giáng sinh. Mẹ phủ hết điển linh quảng đại, Tâm huyết thư, để lại chơn kinh, Kim ngôn siêu thoát, quang minh, Từ Tôn bảo dưỡng chúng sinh an toàn. Là con hiếu, Đàn tràng cung kỉnh, Mỗi hằng niên, nguyện thỉnh Mẫu Từ, Ðúng ngày thập bát, trăng mười, Gia gia tụng niệm, người người trì kinh. Lập đại lễ, hoa xinh, trà, quả, Dâng hương, đăng, tất cả khiết tinh, Cùng nhau hội hiệp trì kinh, Sớ dâng Từ Mẫu chứng minh con lành. Nếu như có nhơn danh, hiền sĩ, Truyền bá kinh, nghĩa lý đủ đầy, Từ Tôn đài thọ ân dầy, Cháu con hiền sĩ từ đây huy hoàng. Hưởng lộc, thọ, vinh sang, phú quí, Hạng phu nhơn, bần sĩ, hiền thần, _26_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Truyền kinh, phổ biến xa gần, Gia gia vui hưởng, muôn phần ấm no. Mẫu hứa sẽ ban cho con thảo, Năm trai lành, kế tạo lửa hương, Hai gái hiếu đạo, thuần lương, Ðời đời nối dõi Tổ Đường, Tông môn. Nam nữ nào sùng tôn, kính Mẫu, Kỉnh lễ, ngày Kỵ Mậu thành tâm, Mẹ ban phước, lộc, cao thâm, Thiên xuân, vạn đại hưởng âm đức dầy. Xứ phương nào hằng ngày cúng vía, Ðàn tràng cầu bốn phía an ninh, Bảo toàn tánh mạng chúng sinh, Mẫu Hoàng phủ điển, ứng linh lời nguyền, Quốc dân nào kiền thuyền vọng bái, Thọ trì kinh, nhớ mãi thâm ân, Mẫu Từ cho xuất Thánh Nhân, Thông minh xuất chúng, muôn phần huyền linh. Công đức Mẫu vô hình khó tả, Dầu lâm sơn, biển cả khó hơn, Ai mà đáp nghĩa, đền ơn, Phải sùng am tự, họa sơn tượng hình. Rồi dâng lên, hương linh thờ phượng, Tạo lập thành tâm tưởng, bái tôn, Diêu Trì Mẫu, Mẹ linh hồn, Hiếu tử làm đặng, y ngôn kim truyền. Mẹ sẽ nhận con hiền, dâu thảo, _27_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Gắng sức xây tái tạo mau đi, Tùy gia phương tiện hữu vi, Chẳng cần tiền bạc nhiều chi đâu nào. Mẫu chứng lòng thanh cao, tâm hảo, Sẽ ghi tên con thảo, danh đề, Thẻ ngọc, Mẹ chuyển bút phê, Tâm phàm phủi sạch, trở về Diêu Cung. Bởi vì con tận trung, tận hiếu, Ðắc quả cao, cửu khiếu khai minh, Con hiền thọ hưởng trường sinh, Nhờ lòng quảng đại quang minh tâm lành, Mẹ sắc tứ, phong danh muôn thuở, Chánh quả thành, dứt nợ trần ai, Ban cho Cửu phẩm liên đài, Trung Ương thượng quốc về ngay đền vàng. Thành Ðại La nghiêm trang, quý báu, Phu phụ đồng đắc Đạo Kim thân, Mẹ ban thọ hưởng hồng ân, Lưu danh Bửu Điện, muôn phần vẻ vang. Ðức Từ Tôn Mẫu Hoàng bảo dưỡng, Trải hết tâm vô lượng vô biên, Ngự nơi cõi thượng thiêng liêng, Ðộ cho quốc thới, dân yên, thanh bình. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH *** _28_

ĐỊA MẪU TỪ BI

ÐỊA MẪU DIỆU KINH Kim Mẫu tuy vô hình, vô tướng, Mẹ cầm quyền phạt thưởng nhơn sinh, Ban ra lời ngọc, Chơn kinh, Khảo sát Đạo lý, khai minh Địa Cầu. Thuở hỗn độn một bầu không khí, Còn mịt mù vô thỉ biết đâu, Kim Mẫu đã ngự đó rồi, Phân ra Thiên Ðịa, Hoàn Cầu chuyển xoay. Mẹ đứng ra làm thầy trước nhất, Ðạo hoằng khai lời thật huyền linh, Phổ thông truyền bá Chơn kinh, Phán bày phong tục nhơn sinh sáng ngời. Chốn phàm trần đến đời Ngươn hạ, Mẹ giáng Cơ bút tả Chơn kinh, Ai truyền, ấn tống, phổ in, Mẫu Hoàng bảo hộ, khương ninh, cửu trường. Người nào đầy lòng thương tiếp dẫn, Giúp chúng sanh ngộ, nhận đạo Chơn, Dựng đời thạnh trị, Thượng Ngươn, Hết lòng chỉ giáo, linh nhơn tỏ tường. Khắp thế giới, thập phương cung kỉnh, Ráng niệm trì, nguyện, thỉnh lời châu, Ðắc thành sở nguyện, mong cầu, Vậy mà chẳng thấy người nào lưu tâm. Hoặc gia gia tháng năm ghi nhớ, Lưu truyền kinh từ thuở ban hành, _29_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Kẻ nào tụng niệm Chơn thành, Thánh Tiên đắc đạo, rạng danh lâu rồi. Ai chẳng tín, bất cầu, ác cảm, Chê bai rằng mờ ám không tùng, Ðến khi vào lúc lâm chung, Hồn linh kẻ ấy vô cùng khổ đau. Ngục A-tỳ sa vào miên viễn, Ðọa đày người lắm tiếng dễ khinh, Sanh lòng nhạo báng lý kinh, Tội như biển cả, mông mênh thảm sầu. Gây nhiều lỗi thâm sâu đại hải, Mẹ chẳng phiền phải trái chi đâu, Xét ra khắp cả Hoàn Cầu, Ðều do lịnh Mẹ, pháp mầu chuyển ra. Mẹ thương con vị tha tất cả, Nào thấy ai để dạ xót thương, Ðắng cay khổ nhọc ai tường, Rõ thông nỗi khổ đoạn trường biết bao. Trang nữ kiệt, anh hào chí hiếu, Bố cáo cho người hiểu rõ ràng, Ðứng ra giải đáp lời vàng, Cho người trần thế, Dương gian tri tường. Khắp thiên hạ, thập phương chung cảnh, Nạn thiên tai, phải quạnh hiu sầu, Dập dồn nhiều cảnh khổ đau, Họa tai trước mắt, tránh đâu bây giờ. Mẹ thương con, đề thơ phân tỏ, Lại chẳng nghe ghi rõ lời châu, _30_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Cuộc đời thế sự bể dâu, Mẹ đà tường tận, đoán rồi tiên tri. Dầu khó khăn, việc chi nguy khốn, Mẹ bình trị chỉnh đốn khắp nơi, Phán truyền bày tỏ bao lời, Hóa sanh, hoằng đạo, khai đời, dưỡng sanh, Địa Mẫu có phân rành tất cả, Bảy mươi hai vị đã lãnh phần, Ðương kim hành sự xa gần, Vị nào cũng có Thánh Thần hợp chung. Duy mình Mẫu chẳng cùng ai cả, Khắp ở trong thiên hạ xứ nào, Lập chùa, tạo miễu, đền cao, Phụng thờ Thần, Thánh, ra vào cung nghinh. Còn Mẫu đây riêng mình, ai nhớ? Ðến tánh danh cũng chớ tường tri! Cõi trần chẳng có chi chi, Một ngôi miếu nhỏ vậy thì cũng không! Bởi chúng sanh bạc lòng chẳng nghĩ, Nên cam đành khổ lụy sầu bi, Quanh năm bao cảnh loạn ly, Trời mưa không thuận, đất thì không sanh, Mẹ thương con, chẳng đành đoạn dứt, Tình thiêng liêng, bút mực ghi rằng, Các con lớn nhỏ nghe chăng, Thọ trì kinh Mẫu, khó khăn cũng lành. Khắp nhơn sanh đều hành tâm Đạo, Giúp cho đời cải tạo, ăn năn, _31_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Chẳng luận cao thấp, ngang bằng, Dầu cho trẻ nhỏ, lòng hằng trì kinh. Chín tuổi biết cung nghinh, đọc tụng, Ðiển huyền vi, hữu dụng, Mẹ ban, Cốt nhục xa cách, lạc đàng, Mẹ cho tái hợp bình an, sum vầy. Vui trong cảnh bao ngày cách biệt, Dầu chia tay cũng hiệp cùng nhau, Không phân hai bậc thấp cao, Ai ai cũng được truyền trao kinh này. Khắp non nước đông tây nam bắc, Phổ biến kinh để nhắc nhở lòng, Thập phương bá tánh rõ thông, Nếu chẳng khứng thọ, chắc không sanh tồn. Bao nguy khổ dập dồn đau xiết, Nạn thiên tai, thủy kiệt, sơn băng, Chúng sanh ngã gục nhào lăn, Lâm vòng đại nạn, thoát chăng được nào. Hiện bây giờ ốm đau bệnh tật, Sinh ra nhiều chứng thật gớm ghê, Khắp trong tất cả thành quê, Thảy đều thọ nạn ê chề khổ thân. Bị nắng hạn, mưa dầm ngập hết, Thổ sản này ngả chết chẳng còn, Ðói lòng quằn quại các con, Vậy nên ráng nhớ lời son Mẫu Từ. Mẹ khuyên con, tâm thư lời cuối, Gắng tâm tu, thông suốt lý kinh, _32_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Truyền trao, giải nghĩa, phổ in, Cho người trì tụng hiểu kinh kịp thời. Chúng con sẽ thấy đời hết khổ, Nội trong năm phổ độ đầu tiên, Mưa hòa, gió thuận khắp miền, Mùa màng sung túc, thấy liền chẳng sai. Còn như đáo lệ ngày Kỵ Mậu, Lập Đàn tràng, bái Mẫu, trì kinh, Dâng đèn sáp, thiệt quang minh, Từ Tôn phủ điển nhơn sinh phúc dầy. Mỗi trăng có ba ngày Mậu Kỵ, Hãy thành tâm, bền chí cúng dường, Kỉnh Đàn, đăng, thủy, hoa, hương, Ngoài ra, tất cả ngày thường khỏi lo. Việc cúng kiến, phải cho tinh khiết, Cố gắng tu tha thiết cần chuyên, Lo tròn phận sự hằng niên, Ba mươi sáu nhựt kiền thuyền trì kinh. Sắm lễ vật, cung nghinh Từ Mẫu, Trong các ngày Kỵ Mậu lập Đàn, Gồm có sáu ngọn đăng quang, Quả hoa tươi thắm, hương phần năm cây. Sáu chung nước lọc đầy đủ lễ, Cùng chung nhau họp, trì kinh, kỉnh đàn, Thuyết kinh, giải lý rõ ràng, Mỗi người đều định tâm an thọ trì. Ai xứ nào làm y lời dạy, Ðịnh tinh thần, tụng bảy biến kinh, _33_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Tiêu bao nghiệp chướng tội mình, Hưởng đời Ngươn Thượng huyền linh sanh tồn, Ai cố gắng sớm hôm trì tụng, Thêm hai thời, chuyển dụng tâm thành, Mẹ ban huyền diệu, điển thanh, Tự tay cứu chữa mạnh lành nội gia. Ðức Từ Tôn truyền ra cho biết, Các con cần tha thiết ghi lòng, Lúa mạch gần chín đầy đồng, Hiện ra móng bạch hư không rõ ràng. Gió từ đâu thổi sang rất mạnh, Trong niên này gặp cảnh phong ba, Khổ sầu từ trẻ tới già, Chúng sanh phải chịu thiết tha cơ hàn. Nạn đói lạnh, lầm than, đau xiết, Là điềm trời ứng thiệt rõ ràng, Thiên Đình thâu hạt lúa vàng, Thần linh ngũ cốc lịnh ban về Trời. Gieo họa cho cảnh đời khốn khổ, Tuy vậy mà có chỗ cũng chừa, Nơi nào kỉnh Mẹ sớm trưa, Trì kinh Ðịa Mẫu phước thừa bình an. Mẹ bảo hộ vững vàng nơi đó, Ðược trúng mùa, mưa gió thuận hòa, Ai từng phổ biến gia gia, Tuyên truyền kinh Mẫu đứng ra giải bày. Phổ thông in đủ đầy nghĩa lý, _34_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Mẫu sẽ sai các vị Thiên Thần, Gia thần ủng hộ ân cần, Ðồng theo độ kẻ xa gần thành tâm. Ðược phúc lành, tháng năm no ấm, Trên Thiên Đình ghi chấm, phước ban, Nội gia kẻ đó thanh nhàn, Sẽ được thạnh phát, vinh quang muôn phần. Thanh Long, Bạch Hổ thần cũng giáng, Phò tá người xứng đáng con lành, Từ Tôn cho biết rõ rành, Trăng mười, thập bát, giáng sanh trần miền. Ðến giờ Ngọ, kiền thuyền kỉnh Mẫu, Chẳng có nên dời đổi thời gian, Sửu, mùi, thìn, tuất không an, Ðúng giờ nhất định lập Đàn, trì kinh. Cầu lịnh Mẹ thương tình cứu khổ, Phủ điển linh phổ độ chúng sanh, Các con tựu họp, tâm thành, Ðược ban mầu nhiệm, phúc lành khắp nơi, Mẹ hiển Thánh xuống đời tri chứng, Phương hướng nào bền vững chí tâm, Thường hành kinh Mẫu diệu thâm, Ngày đêm thành kỉnh, tháng năm thanh nhàn. Còn lo chi mùa màng chẳng trúng, Gia nào hay trì tụng kinh này, Phước lành sẽ được hưởng ngay, Thăng thiên, đắc quả, chẳng sai chẳng lầm, Hưởng quý tế, cao thâm, lộc cả, _35_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Thọ hương, đăng, trà, quả, vinh sang, Chơn kinh của đức Mẫu Hoàng, Gồm bao diệu lý, lời vàng ngọc châu. Kinh Ðịa Mẫu đứng vào bậc nhứt, Chẳng tường phân, ý thức suy tầm, Người đời còn bởi mê tâm, Chẳng nên khinh dễ, lỗi lầm tội mang. Ai tỉnh ngộ lập Đàn, cung kỉnh, Thọ trì kinh nghiêm chỉnh cúng dường, Nạn tai nghiệp chướng lỡ vương, Một ngàn muôn kiếp thoát đường trầm luân, Kinh Ðịa Mẫu thấm nhuần đạo lý, Gắng cần chuyên nghiệm kỹ lời khuyên, Hằng ngày ròng rã khẩn nguyền, Ðược nhiều công đức, tội liền tiêu tan. Kinh Mẫu hơn muôn ngàn kinh khác, Ai chí tâm, hiển đạt phúc lành, Rõ thông từng chữ hiểu rành, Người đó sẽ được Mẹ dành hồng ân. Ðiển huyền linh, xa gần chiếu tỏa, Phóng hào quang khắp cả bầu trời, Thưởng người hiểu rõ từng lời, Tâm tư kẻ đó sáng ngời minh châu. Ai thông đạt từng câu, nghiệm kỹ, Ðã tri tường nghĩa lý Diệu kinh, Có thể gội sạch tội mình, Bao nhiêu nghiệp chướng, oan tình tiêu tan. Như ai rõ từng hàng Mẫu dạy, _36_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Qua nạn tai sắp xảy đến mình, Lại còn hưởng được phước vinh, Tam tài, lộc, thọ, khương ninh, thanh nhàn. Nếu ai hiểu được toàn kinh quyển, Thì đích danh Mẫu chuyển điển quang, Luôn được phước lộc, bình an, Ðời đời kiếp kiếp, Mẹ ban phúc đầy. Như nghe thuyết kinh này chẳng tưởng, Lại bỏ qua không lượng tường tri, Mà lòng chẳng khứng thọ trì, Bị khép vào tội khinh khi Phật Trời. Tội phỉ báng bao lời xúc phạm, Lâm vào cảnh khóc thảm sầu than, Ngày ấy chẳng có kêu oan, Phải đành vướng tội gian nan ngục hình. Dân nước nào chẳng tin lời Mẫu, Sẽ lâm vào bao nỗi thiết tha, Ðại kiếp thủy hỏa phong ba, Thảy đều chết rụi đâu mà còn chi. Lòng Từ Mẫu nghĩ suy đau xiết, Muốn hưu hủy đại kiếp phong ba, Nạn thủy hỏa sắp xảy ra, Thương cho sanh chúng phải sa cảnh sầu, Ngặt chúng chẳng quay đầu trở lại, Tuân theo lời Mẫu dạy trong kinh, Mẹ muốn bỏ sổ tử sinh, Vì thấy số phận chúng sinh chết nhiều. Mẹ tính mãi bao điều phương kế, _37_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Chẳng đành lòng bỏ phế lãng ngơ, Tình thương vô bến vô bờ, Làm sao cứu được con thơ trở về. Mẹ dùng chước mầu, phê sắc lịnh, Phán phân rằng chỉ định thế này, Truyền thần Thiện, Ác đến đây, Chia làm hai phái lướt mây xuống trần. Người hung dữ Ác Thần dẫn dắt, Nhập cùng chung kẻ bất lương tâm, Ðộc ác, tàn nhẫn, đa dâm, Chia ra tất cả, chẳng lầm lộn chi. Bậc hiền lương, phương phi, quân tử, Thiện Thần gom lại giữ một nơi, Ðưa vào chánh giác kịp thời, Ngày đêm tu niệm quên đời gian nan. Chờ đến ngày hạ màn, chung cuộc, Mẫu sẽ vãy ra một cái chài, Dầu cho thiện, ác phân hai, Tóm thâu tất cả, một chài nhốt chung. Liên lụy kẻ tận trung, hiếu thảo, Người tu hành, học đạo kinh tâm, Chừng đó mới thấy diệu thâm, Mẫu Từ sẽ chuyển huệ tâm trẻ lành. Ðược sống sót, nhàn thanh, đủ trí, Biết tường phân chánh lý, đường tà, Thiện gần, ác lại tránh xa, Từ đó các Ðạo mở ra khai hoằng. Ðồng xuôi lòng ăn năn quy tựu, _38_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Chánh đạo Mẫu hội đủ đem về, Chẳng còn chia rẽ, khen chê, Phân ra nhiều mối khó bề tường phân. Hình tướng chài phép Thần mầu nhiệm, Mẫu tả ra những điểm rất cần, Nhị Thập Bát Tú phân thân, Phủ vây chánh Bắc, giáp gần chánh Nam. Còn phương hướng Tây Nam, Tây Bắc, Các vị Thần giáp mặc bông bào, Gồm sáu mươi vị tài cao, Mẫu Từ phán lịnh truyền trao lời vàng. Tuân lời dạy Thiên Can mười vị, Thập Nhị Thần định chỉ Ðịa Chi, Tất cả Tinh Tú các vì, Ủng hộ Hoàng Đế Thái Vi hoàn toàn. Ðức Từ Tôn Mẫu Hoàng điều khiển, Thần Lôi Công, Lôi Điển tám phương, Phân thân trấn thủ phi thường, Sáu mươi bốn quẻ tỏ tường diệu thâm. Hiện nguyên hình, tay cầm binh khí, Ðứng dàn ra trực chỉ đó đây, Khắp trong thiên hạ đủ đầy, Trận đồ của Mẫu lập xây hạ miền. Cõi trời Nam, từ niên Ðinh Hợi, Ðến niên Thân Dậu mới thiệt rồi, Biết bao huyền bí nhiệm mầu, Tại nơi hạ giới thảm sầu thiết tha. Mẫu Từ bủa Thiên la, Ðịa võng, _39_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Sức đại hùng vang động kinh hồn, Làm cho Thiên ám, Ðịa hôn, Thần sầu quỷ khóc, vong hồn thảm thương. Còn Tứ Ðại Thiên Vương tiếp lịnh, Bốn cửa trận Mẫu định trấn an, Tám vị Thần lực Kim Cang, Xông vào trận, hóa pháp Đàn thần thông. Làm trời đất, hư không nghiêng ngã, Nhựt Nguyệt Tinh Châu hỏa đảo xoay, Cũng như chong chóng lăn quay, Thế rồi lặn mất, không ngày hiện ra. Mẫu thâu lại yêu tà lăng mị, Kẻ bất lương phải bị ngục hình, Hô phong, hoán võ, lôi đình, Làm cho sấm nổ, nước mênh mông tràn. Lửa dậy khắp Dương gian nguy khổ, Trận cuồng phong bão tố khắp vùng, Mẫu tận diệt đứa bất trung, Xử người bất nghĩa, chẳng dung tha nào. Ðến chừng đó vàng thau mới rõ, Mẫu thâu xong ngày đó bình an, Nước rút, sóng lặng, gió tan, Sẽ thấy vũ trụ, Dương gian tươi nhuần. Chỉ còn người hiền lương sống sót, Kẻ thiện lương được thoát khỏi vòng, Thế là Mẫu dụng huyền công, Diệu pháp hóa biến thần thông lẹ làng. Kinh đô có sen vàng đua nở, _40_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Bốn phía vòng khắp ở thị thành, Các con hiếu thảo, hiền lành, Ðến chừng khi đó, Mẫu dành hồng ân. Ðược đổi xác Kim thân bất hoại, Chẳng tử sanh, thoát khỏi nghiệp duyên, Chứng đặng Ðại La Thiên Tiên, Bởi nhờ cố gắng tu hiền thành công. Hội bàn đào thưởng đồng tất cả, Các con nào đắc quả dự vào, Thế rồi vĩnh viễn về sau, Chẳng còn chuyển kiếp khổ đau trần miền. Chúng con được niên niên bất tử, Khoái lạc tiêu diêu ngự cảnh nhàn, Giống cảnh Diêu Ðiện Mẫu Hoàng, Luôn hưởng lộc, thọ, phước an cửu trường, Kim Mẫu ngự trên tầng thượng cõi, Hoằng khai dưỡng nhơn loại bảo toàn, Hết lòng quảng đại sắc son, Hóa sanh dạy dỗ các con phản hồi. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH

LẠY ĐỊA MẪU 1. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu đấng tối cao vô thượng, Đã giáng lâm phò hộ thế gian này, Với Anh linh cùng đức độ cao dầy, _41_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Công tế thế an bang danh còn đượm. 2. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu ân độ sanh vô lượng, Ân bảo trì cứu tử lại vô biên, Mẹ của nhân gian, Mẹ Thánh, Mẫu Hiền, Hàng Phật tử chúng con nguyền ghi mãi. 3. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu, đấng Mẫu Nghi tứ hải, Danh vang lừng khắp cả nước non Tiên, Xuống trần gian làm Từ Mẫu, Mẹ hiền, Để cứu độ chúng sanh, cơn hoạn nạn. 4. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu, đấng Anh Linh vô hạn, Xin mẹ ban phép lạ cứu trần gian, Đang sống trong nghiệp chướng chốn trần hoàn, Xin tế độ cho muôn loài hết khổ. 5. Nam mô – Con kính lạy Địa Mẫu, đức Mẹ rải ân lành, Cho Việt Nam Phật giáo khắp thịnh hành, Được tôn nghiêm mầu nhiệm, trọn viên thành, Đàn con Mẹ, bốn phương đều kính Mẹ.

NGŨ CANH TỪ _42_

ĐỊA MẪU TỪ BI

1. Canh một nhìn trần lệ tuôn rơi, Chúng dân khổ lụy nạn tơi bời, Nên lo tu tỉnh này con dại, Lạy Mẹ nguyện cầu bể khổ vơi. 2. Canh hai điển lực rải mọi nơi, Thiện nhân tu tỉnh được thảnh thơi, Sao không cố gắng tu trì vậy, Thương xót con, Mẹ chẳng nghỉ ngơi. 3. Canh ba lụy Mẹ nhỏ tràn trề, Hết lời kêu gọi con tỉnh mê, Cuộc đời say đắm đường vật chất, Chôn lấp linh quang, cản lối về. 4. Canh tư đẫm lệ cõi Ta Bà, Cứu vớt cuộc đời giấc Nam Kha, Điển linh ban xuống lời từ ái, Kêu gọi thiện nhân nhủ mẹ già. 5. Canh năm trầm ngâm lẽ diệu huyền, Bố ban linh điển dứt oan khiên, Thiện nhân cứu vớt tu hành vậy, Di Lặc oai linh dạy chư Hiền.

_43_

ĐỊA MẪU TỪ BI

NAM MÔ VÔ CỰC THIÊN TÔN DIÊU TRÌ HOÀNG MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN ĐẠI TỪ TÔN, A DI ĐÀ PHẬT * * * MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH Tâm trí huệ thinh thinh rộng lớn, Sáng trong ngần, chẳng bợn mảy trần, Làu làu một tánh thiên Chân, Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm. Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt, Cõi bờ kia một bước đến nơi, Trải lòng tròn đủ xưa nay, Công thành, quả chứng tỏ bày đích đang. Hàng Bồ tát danh Quan Tự Tại, Khi tham thiền vô ngại đến trong, Thẩm vào trí huệ mở thông, Soi thấy năm uẩn cũng không có gì. Luống tất cả không chi khổ ách, Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra, Sắc, không chung ở một nhà, Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không. Ấy sắc tướng, cũng đồng không tướng, Không tướng y như tượng sắc kia, _44_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Thọ, tưởng, hành, thức phân chia, Cũng lại như vậy tổng về Chân không. Tỏa sắc tướng nhơn ông tạm đó, Các phép kia tướng nọ luống Chân, Chẳng sanh chẳng dứt, thường Chân, Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm. Cớ ấy nên cõi trên không giới, Thảy làu làu vô ngại, trường Chân, Vốn không ngũ uẩn, ấm, thân, Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không. Thấy rỗng không, mà không nhãn giới, Biết hoàn toàn, thức giới cũng không, Tánh không, sáng suốt đại đồng, Vô minh chẳng có, mựa hồng hết chi. Vẫn không có thân gì già chết, Huống chi là hết chết già sao? Tứ đế cũng chẳng có nào, Không chi là trí, có nào đắc chi. Do vô sở đắc ly tất cả, Nhơn pháp kia đều xả; nhị không, Vận lòng trí huệ linh thông, Bờ kia mau đến; tâm không ngại gì. _45_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Không quái ngại, có chi khủng bố, Tức xa lìa mộng tưởng; đảo điên, Tâm không rốt ráo chi duyên, Niết Bàn quả chứng, Chân nguyên hoàn toàn. Tam thế Phật, y đàng Bát Nhã, Đáo Bồ Đề chứng quả Chánh Chân, Cho hay Bát Nhã là hơn, Pháp môn tối thắng, cõi Chân mau về. Thiệt thần chú linh tri đại lực, Thiệt thần chú đúng bậc quang minh, Ấy chú tối thượng oai linh, Ấy chú vô đẳng, thinh thinh oai thần. Trừ tất cả nguyên nhân các khổ, Thức tỉnh lòng giác ngộ, vô sư, Thiên nhiên Chân thiệt, bất hư, Án Lam thần chú, Chân như thuyết rằng: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha. (3 lần) VÃNG SANH THẦN CHÚ: Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệt dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. ( 3 lần ) _46_

ĐỊA MẪU TỪ BI

XƯNG TÁN: Chúng Thích tử kiền thuyền xưng tán, Đấng Mẫu nghi vô lượng lợi sanh, Đông Tây Nam Bắc bốn phương, Hiện ra quang điển huyền linh tuyệt vời, Kim sắc tướng muôn ngàn công đức, Khắp mười phương, chẳng bực sánh bằng, Bạch hào hiển hiện phóng quang, Xoay vần chiếu sáng, độ an dân lành. Nam mô Thiên Cung Thượng Cõi, Kim Mẫu tiếp dẫn chúng sinh, A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. (108 lần) Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát. (10 lần) Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (10 lần) Nam mô Linh Sơn Thánh Mẫu Bồ Tát. (10 lần) Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát. (10 lần) *-*-*-*-*-* SÁM: Cơ Trời chẳng dám lậu ra, Mẹ thời thương trẻ, xót xa trong lòng, Cho nên lòng Mẹ trực hồng, Canh khuya mẹ đến tỏ trong sự tình, Nếu mà Ngài để làm thinh, Con ôi! Lớn bé khốn mình về sau, Thấy trong Trời định quặn đau, Con ôi! Não nộ Mẹ vào tâu xin, _47_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Muôn trông Thánh Đế Thượng Đình, Thứ dung trần tục, ta xin phen này, Tôi nguyền độ hết xưa nay, Bao giờ về hết trên thay sửa đời, Mẹ thương con dại con ơi! Nếu không có Mẹ, thời Trời chẳng dung, Con ôi! Lòng Mẹ không cùng, Thương con trần thế khắp chung bầu trời, Phải xưa con trẻ nghe lời, Mẹ đem về hết, thảnh thơi an nhàn, Có đâu trần tục chẳng an, Nay thời đau ốm, mai mang tật nguyền, Chết rồi đọa lạc Diêm-Thiên, Luân hồi sáu thú lụy miền U-Đô, Con ôi! Lòng Mẹ héo khô, Cũng vì thương trẻ, Mẹ vô chốn này, Một giải tật bệnh con nay, Tiêu trừ đau ốm, đặng ngày an vui, Hai giải nóng nảy thuận xuôi, Hàn thấp phong chứng hết rồi hân hoan, Canh chầy, Mẹ kíp lên đường, Giã con ở lại, Mẹ sang Tây Đình. SÁM ĐỊA MẪU: Ngày ngày lòng Mẹ bâng khuâng, Cũng vì thương trẻ nơi chung bụi trần, Nỡ nào xoay mặt, sấp lưng, Liêu xiêu con đỏ Mẹ đành xiết than, _48_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Trời cho oai nộ sấm vang, Nếu không có Mẹ ắt tàn chúng con, Bởi nên Mẹ trách phiền con, Công Mẹ sanh sản chẳng còn tiếc chi, Con sao bạc nghĩa chẳng ghi, Nhờ ơn tạo hóa chút gì công danh, Nếu như Mẹ giận bỏ đành, Thì con đâu đặng nên danh cuộc đời, Ngày ngày ăn uống vui chơi, Chớ hề con niệm Địa thời Mẫu đây, Muốn nên hiển vật tạo gây, Muốn độ con trẻ phải bày dỗ khuyên, Đôi lời Mẹ nhắc con ghi, Ngày nào kêu Mẹ, Mẫu liền dắt con, Trần gian tăm tối mịt mù, Con ơi nghe Mẹ thẳng đường con đi, Những lời Mẹ đã tiên tri, Ngày nào Đại hội con thì gặp Cha, Ít lời Kim khẩu thuyết ra, Dương gian con ngụ, Mẹ mà thượng Thiên. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU VÔ LƯỢNG TỪ TÔN ĐẠI TỪ TÔN, A DI ĐÀ PHẬT *-*-*-*-*-* TÁN DƯƠNG CÔNG ÐỨC MẪU: Mỗi trăng, tam nhựt Mậu, Chí tâm trì Mẫu kinh, Tha thiết nguyện chúng sanh, _49_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Ðoạn dứt bao nghiệp tội, Lời châu kinh Ðịa-Mẫu, Tâm huyết thư lệnh Mẹ, Hoằng bao la mầu nhiệm, Ðộ quốc thới dân an, Mùa màng được sung túc, Dưỡng dục độ chúng sanh, Tiêu tai tứ phước thọ, Cải tội miễn oan khiên, Nhứt quyển tiêu vạn kiếp. Ðịa-Mẫu bảo an ninh, Vĩnh bất sanh phàm hạ, Tình Mẹ thương lai láng, Nhân đức vô cùng tận, Mẹ bảo hộ nhơn dân, Ðược an nhàn trường cửu, Xin đem mọi công đức, Dâng lễ Ðịa-Mẫu kinh, Hồi hướng cho nhân loại, Lợi ích khắp chúng sinh, Ở mười phương pháp giới, Ðều dứt mê, khai ngộ, Thoát khỏi sanh, lão, tử, Nương nhờ linh điển Mẹ, Chứng đặng quả Bồ-Đề, Sớm trở về đất Phật.

_50_

ĐỊA MẪU TỪ BI

NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (3 lạy) ĐƯA ĐIỂN MẸ HỒI CUNG: Kim thuyền có hương đăng trà quả, Lễ kỉnh thành con bái tạ Mẫu nghi, Mẹ là Đại đức Từ Bi, Vì thương con dại mới đi xuống trần, Lời châu ngọc Mẹ ân cần dạy biểu, Tiếng đá vàng, con mới hiểu thiên cơ, Dắt con chỉ bến, chỉ bờ, Lo tu trọn đạo, đặng nhờ thiêng liêng, Này các con quyết tâm chí tịnh, Giữ một lòng nhẫn nhịn lo tu, Giờ này là quyết tâm tu, Điển linh Mẹ giáng xuống trần độ con, Nên con mới biết Cung son bờ bến, Đồng cùng nhau dắt đến trường thi, Gia trang sắp đặt an bày, Thanh trà hoa quả lễ bày kính dâng, Con lớn bé chúc mừng Hoàng Mẫu, Cầu phước cho Nước Việt an vui, Giờ này cầu nguyện đã rồi, Lạy đưa điển Mẹ phản hồi Thiên Cung. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG DIÊU TRÌ ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG TỪ TÔN ĐẠI TỪ TÔN CẢM ỨNG CHỨNG MINH, A DI ĐÀ PHẬT (3 lạy). _51_

ĐỊA MẪU TỪ BI

BÀI NGUYỆN: Kiền thiền vọng bái Mẫu Hoàng, Chấn chỉnh đạo giáo sắp an dân tình, Độ người khỏi chốn U-Minh, Vọng cầu bái Mẹ nhờ tình xót thương, Chúng dân tai họa đa vương, Lạy Mẹ dạy dỗ mới tường Thiên cơ, Vô Cực Từ Tôn Tây Thiên Bá Chủ, Lạy tạ Vương Cung Tây Mẫu Từ Ân, Hào quang rọi xuống hương lân tỉnh thành, Khắp trong dân chúng làm lành, Thương yêu đùm giúp chẳng đành bỏ nhau, Mây lành rọi tỏ năm màu, Cỏ cây tươi tốt làu làu Thái Dương, Yên vui bốn bể mới tường, Cơ trời sắp đặt Luân Thường vẻ vang, Diêu Trì chấn chỉnh sửa sang, Bao nguồn về cội một đàng chánh quy, Kiền thiền vọng bái Từ tôn, Chuẩn y Tam Giáo mới tồn lý cao, Ơn Trên cam lộ rào rào, Chúng con nguyện vọng ước ao thái bình, Lạy cầu Mẹ ở Thiên Đình, Độ an dân chúng, pháp linh tỏ tường. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH (3 biến) _52_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nam mô Mẹ Hiền QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT: Tầm thinh ơn Bồ-Tát, Cứu nạn Quán-Thế-Âm, Vườn hoa cùng hương lâm, Cây lành chim đậu hót, Tiếng chim càng thánh thót, Chào đón MẪU TỪ BI, Tâm phàm định tịnh lố huyền vi, Cúi đầu lạy Mẹ Đại Bi, Ðại Từ. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT - NHẤT TÂM THÀNH KÍNH. ( 3 lạy)

Nam mô QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT. (3 lạy) NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ÐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH. (4 lạy) PHỤC NGUYỆN: (Hoặc muốn phục nguyện bài khác cũng được)

Nam mô A-Di-Ðà Phật Phục nguyện, Quán-Âm thị hiện, Thuyết pháp độ sinh, Lâm nạn xưng danh, Tầm thinh cứu khổ, Hiện tiền đệ tử..... Pháp danh..... Cập nhứt thiết hàm linh, Thừa tư công đức, Hồi hướng Tây-Phương, Trang nghiêm Tịnh-Ðộ, _53_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Thượng báo tứ trọng ân, Hạ tế tam-đồ khổ, Từ thuyền phổ độ, Phước đức vô biên, Ðồng hóa hữu duyên, Tề thành Phật Ðạo. NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT (Ðồng niệm) Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Kiền thuyền Ðịa-Mẫu kinh, Vĩnh tạo hưởng phước trạch. Nam mô Vô-Thượng Hư-Không Ðịa-Mẫu Huyền-Hóa Dưỡng-Sanh Bảo-Mạng Chơn Kinh HỒI HƯỚNG: Phẩm kinh con mới đọc rồi, Nguyện xin phước đức vun bồi chúng sanh, Cho người thức tỉnh tu hành, Bến mê phút chốc biến thành ao sen, Lý kinh sáng suốt như đèn, Rọi vào tâm trí tối đen sáng liền, Tụng Kinh Địa Mẫu có duyên, Gặp người tri thức, bạn hiền đồng tu, Ngày ngày tinh tấn công phu, Điển quang Mẹ chiếu linh căn sáng ngời, Cúi xin Kim Mẫu chứng lòng, Tâm nguyền quyết chí gắng công tu trì. _54_

ĐỊA MẪU TỪ BI

Nam Mô Vô Thượng Hư Không Địa Mẫu Dưỡng sanh Bảo mạng Chơn Kinh Từ Tôn Đại Từ Tôn. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật. Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. TAM QUI Qui y Phật, cứu thế ân, Xin mẹ ban phước vun bồi chúng sanh, Trần gian biết nẻo tu hành, Nhờ đèn trí huệ biết đường Phật Tiên, Qui y pháp là phương giải thoát, Điển huyền linh bủa khắp trần gian, Sửa tâm chứng đắc kịp đàng, Linh căn Mẹ điểm hội thời Long Hoa, Qui y Tăng, Chân truyền Mẫu dạy, Phải ăn chay, giới luật nghiêm trang, Hữu hình giả tạm, tuần hoàn, Vô vi thượng cảnh, trở về Thiên Cung. Có bài kệ rằng: Tri thân là khổ phải tu thân, Huyện Châu cùng ở cõi phàm trần. Hàm linh cán đức nhờ Kinh Chú, Quyển tập hằng xem thấy sáng trân.

_55_

ĐỊA MẪU TỪ BI Ấn rao Ngũ-Cốc cầu trăm họ. Tống truyền Ðịa-Mẫu chúa muôn dân. Linh hiển rõ ràng đừng khinh dễ, Kinh văn rực rỡ giữ lòng tuân. Thánh Thần vốn là hàng cao thượng, Góp chung tay giúp kẻ thiện lương, Phật Tiên cùng ở một nguồn, Đều dùng phương tiện độ người gắng công, Ngàn sông trăm biển về một mối, Khác danh từ nhưng một cội sinh, Cùng vào đại giác đại linh, Đều dùng phương thức ngộ người hữu tâm, Kinh Địa Mẫu sâu xa cao cả, Dùng chước hay cứu khổ chúng sanh, Ai mà hiểu rõ lời kinh, Vượt ngoài tam giới, giúp loài quần sinh. Địa mẫu đấng tối cao tối thượng, Truyền bản đồ(*) cứu vớt hàm linh, Cầu mong sanh chúng hữu tình, Theo đường Tiên Phật thoát vòng tử sinh. NAM MÔ VÔ THƯỢNG HƯ KHÔNG ĐỊA MẪU DƯỠNG SANH BẢO MẠNG CHƠN KINH A DI ĐÀ PHẬT BÀI KỆ:

Thượng Ngươn lập Hội Long Vân, Phân ngôi kế vị hòa bình quốc gia, Cộng đồng Tam giáo qui nguyên, Chân truyền tâm ấn khai cơ Đạo Hiền, Thượng thông thiên địa Long Hoa, Chuyển luân chánh pháp độ người thiện duyên, Thiên cơ kín nhiệm khó rành, Người không căn trước thiệt tình biết đâu. (*): Ghi chú: Bản đồ Thái Cực tạo thành Nội Đan Luân Chuyển Đồ trong Đạo Gia, là của Từ Mẫu Diêu Trì Cung.

(Cúi xin quý Ông Bà cùng nội ngoại thiện tín, như muốn tụng kinh nầy cầu cho ruộng vườn sung túc, nhà an nước thạnh, trên dưới thuận hòa, thì trước khi tụng phải súc miệng, rửa tay, rửa mặt, bàn ghế cho sạch sẽ, mỗi việc đều tinh tấn, coi như luật nhà Phật mà y theo, thì cầu chi đặng nấy là: Sở nguyện sở cầu giai toại ý. Không sai).

_56_

ĐỊA MẪU TỪ BI 敬誦 Con kính tụng

地母真經 Địa mẫu Chân kinh 盤古初分我當尊,陰陽二氣配成婚。萬物本賴風和雨,開堂先念地母經。 Bàn cổ sơ phân ngã đương tôn , âm dương nhị khí phối thành hôn. Vạn vật bổn lại phong hoà vũ , khai đường tiên niệm địa mẫu kinh. 上奉高真親歡喜,下保萬民永安寧。地是地來天是天,陰陽二氣緊相連。 Thượng phụng cao chân thân hoan hỷ , hạ bảo vạn dân vĩnh an ninh. Địa thị địa lai thiên thị thiên , âm dương nhị khí khẩn tương liên. 統天統地統三光,包天包地包乾坤。坎離 震兌當四柱,乾坤艮巽是為天。 Thống thiên thống địa thống tam quang , bao thiên bao địa bao càn khôn. Khảm ly chấn đoài đáng tứ trụ , càn khôn cấn tốn thị vi thiên. 地母本是戊己土,包養先天 與後天。天君本是玄童子,他聾我啞配成雙。 Địa mẫu bổn thị mậu kỷ thổ , bao dưỡng tiên thiên dữ hậu thiên. Thiên quân bổn thị huyền đồng tử , tha lung ngã á phối thành song. 神與氣和化天 地,氣與神和產賢人。真氣為母母是氣,真神為子子是神。 Thần dữ khí hoà hoá thiên địa , khí dữ thần hoà sản hiền nhân. Chân khí vi mẫu mẫu thị khí , chân thần vi tử tử thị thần. 陰陽會合真造化,造化天地產賢君。雖然不會人言語,三九二八時時行。 Âm dương hội hợp chân tạo hoá , tạo hoá thiên địa sản hiền quân. Tuy nhiên bất hội nhân ngôn ngữ , tam cửu nhị bát thời thời hành. 子母不離懷胎孕,身懷有孕十年整。十月胎足卦爻定, 胎滿產出六賢君。 Tử mẫu bất ly hoài thai dựng , thân hoài hữu dựng thập niên chỉnh. Thập ngoạt thai túc quái hào định , thai mãn sản xuất lục hiền quân. 天皇地皇人皇氏,伏羲軒轅與神農。伏羲能化天合地,陰陽二氣八卦分。 Thiên hoàng địa hoàng nhân hoàng thị , phục hy hiên viên dữ thần nông. Phục hy năng hoá thiên hợp địa , âm dương nhị khí bát quái phân. 神農皇帝治五谷,軒轅皇帝治衣襟。飲食衣服從此起,留下後世照樣行。 Thần nông hoàng đế trì ngũ cốc , hiên viên hoàng đế trì y khâm. Ẩm thực y phục tòng thử khởi , lưu hạ hậu thế chiếu dạng hành. 三世諸佛從我出,菩薩不離母一身。各位諸神不離我,離我何處去安身。 Tam thế chư phật tòng ngã xuất , bồ tát bất ly mẫu nhất thân. Các vị chư thần bất ly ngã , ly ngã hà xứ khứ an thân. 東西南北四部洲,春夏秋冬我造成。江河湖海不離我,萬國九州我長成。

_57_

ĐỊA MẪU TỪ BI Đông tây nam bắc tứ bộ châu , xuân hạ thu đông ngã tạo thành. Giang hà hồ hải bất ly ngã , vạn quốc cửu Châu ngã trưởng thành. 歷代帝王不離我,大小皇官我養成。天下五嶽仙山境,山林樹木我造成。 Lịch đại đế vương bất ly ngã , đại tiểu hoàng quan ngã dưỡng thành. Thiên hạ Ngũ nhạc Tiên sơn cảnh , sơn lâm thụ mộc ngã tạo thành. 庶民百姓不離我,五谷六米我長成。七十二樣不離我,萬物草木我長成。 Thứ dân bá tính bất ly ngã , ngũ cốc lục mễ ngã trưởng thành. Thất thập nhị dạng bất ly ngã , vạn vật thảo mộc ngã trưởng thành. 人活在世吃用我,死後還在我懷中。各府州縣不離我,庵觀寺院我體成。 Nhân hoạt tại thế ngật dụng ngã , tử hậu hoàn tại ngã hoài trung. Các phủ châu huyện bất ly ngã , am quán tự viện ngã thể thành. 大小賢神是我塑,諸佛金身我功成。黃金本是四方寶,想壞世上多少人。 Đại tiểu hiền thần thị ngã tố , chư Phật kim thân ngã công thành. Hoàng kim bổn thị tứ phương bảo , tưởng hoại thế thượng đa thiểu nhân. 金銀財寶從我出,看來不離我一身。各國王子把我敬,累代帝王把我尊。 Kim ngân tài bảo tòng ngã xuất , khan lai bất ly ngã nhất thân. Các quốc vương tử bả ngã kính , luỹ đại đế vương bả ngã tôn. 國王為我動干戈,那個敬我地母身。綾羅綵緞從我出,花木菜果我長成。 Quốc vương vị ngã động can qua , na cá kính ngã địa mẫu thân. Lăng la thái đoạn tòng ngã xuất , hoa mộc thái quả ngã trưởng thành. 酸甜辣苦從我出,四季藥苗我長成。蔥蒜韭菜從我出,薑糖古月我長成。 Toan điềm lạt khổ tòng ngã xuất , tứ quý dược miêu ngã trưởng thành. Thông toán cửu thái tòng ngã xuất , khương đường cổ ngoạt ngã trưởng thành. 天下男女多生病,地母萬藥造生成。男女口中無滋味,油鹽醬醋我造成。 Thiên hạ nam nữ đa sinh bệnh , địa mẫu vạn dược tạo sinh thành. Nam nữ khẩu trung vô tư vị , du diêm tương thố ngã tạo thành. 樣樣都是我造出,萬般都是我造成。地母心血都費盡,地母費了無邊心。 Dạng dạng đô thị ngã tạo xuất , vạn ban đô thị ngã tạo thành. Địa mẫu tâm huyết đô phí tận , địa mẫu phí liễu vô biên tâm. 老娘為兒更為女,兒女忘了我的恩。吃喝穿帶娘造化,造化發生我長成。 Lão nương vị nhi cánh vị nữ , nhi nữ vong liễu ngã đích ân. Ngật hát xuyên đái nương tạo hoá , tạo hoá phát sinh ngã trưởng thành. 變賣銀子你們用,那個提念我一聲。世上諸物不離我,萬物還是娘生成。 Biến mại ngân tử nễ môn dụng, na cá đề niệm ngã nhất thanh. Thế thượng chư vật bất ly ngã, vạn vật hoàn thị nương sinh thành. 本來土產生一物,無數包藏六道行。世上只知天為大,地母敢大天一層。 Bổn lai thổ sản sinh nhất vật , vô số bao tàng lục đạo hành. Thế thượng chỉ tri thiên vị đại , địa mẫu cảm đại thiên nhất tằng. 天上一點甘露水,地下田苗五谷生。雖然降下是好雨,還是地母骨體精。

_58_

ĐỊA MẪU TỪ BI Thiên thượng nhất điểm cam lộ thuỷ , địa hạ điền miêu ngũ cốc sinh. Tuy nhiên giáng hạ thị hảo vũ , hoàn thị địa mẫu cốt thể tinh. 龍藏千里不離我,風雲還是地母生。母不與龍起風雲,看龍何處有雨行。 Long tàng thiên lý bất ly ngã , phong vân hoàn thị địa mẫu sinh. Mẫu bất dữ long khởi phong vân , khan long hà xứ hữu vũ hành. 龍也無處把身隱,呼雷閃電漏了形。說來說去都是我,世上怎知我苦心。 Long dã vô xứ bả thân ẩn , hô lôi thiểm điện lậu liễu hình. Thuyết lai thuyết khứ đô thị ngã , thế thượng chẩm tri ngã khổ tâm. 勞碌辛苦地母受,好穿好吃兒女行。地母晝夜不合眼,合眼眾是有災星。 Lao lộc tân khổ địa mẫu thụ , hảo xuyên hảo ngật nhi nữ hành. Địa mẫu trú dạ bất hợp nhãn , hợp nhãn chúng thị hữu tai tinh. 地母一時打個盹,鰲魚翻身一掃平。也無天來也無地,世上成了一場空。 Địa mẫu nhất thời đả cá truân , ngao ngư phiên thân nhất tảo bình. Dã vô thiên lai dã vô địa , thế thượng thành liễu nhất trường không. 諸佛逃走天涯外,菩薩逃走永無窮。 Chư Phật đào tẩu thiên nhai ngoại , Bồ tát đào tẩu vĩnh vô cùng. 君民人等盡皆無,天地神賢似火焚。 Quân dân nhân đẳng tận giai vô , Thiên địa thần hiền tự hoả phần. 無東無西無南北,萬物盡皆如灰塵。參透發筆地母意,地母光明度此身。 Vô đông vô tây vô nam bắc , vạn vật tận giai như hôi trần. Tham thấu phát bút địa mẫu ý , địa mẫu quang minh độ thử thân. 地母發筆靈芝現,地母真炁結月成。性命保全精神合,精神氣合我造成。 Địa mẫu phát bút linh chi hiện , địa mẫu chân khí kết ngoạt thành. Tính mệnh bảo toàn tinh thần hợp , tinh thần khí hợp ngã tạo thành. 仙佛賢聖忘母意,誇強賣會成才能。君臣文武忘母意,忘了地母大慈恩。 Tiên Phật hiền thánh vong mẫu ý , khoa cường mại hội thành thủ năng. Quân thần văn vũ vong mẫu ý , vong liễu địa mẫu đại từ ân. 士農工商忘母意,將恩不報反無情。不分正法圖如意,墮落萬劫不翻身。 Sĩ nông công thương vong mẫu ý , tương ân bất báo phản vô tình. Bất phân chính pháp đồ như ý , đoạ lạc vạn kiếp bất phiên thân. 要知地母名合姓,鴻蒙未判老混沌。 Yếu tri địa mẫu danh hợp tính , Hồng mông vị phán lão hỗn độn. 壽活十二萬年載,九千六百刻時辰。 Thọ hoạt thập nhị vạn niên tải , Cửu thiên lục bách khắc thời thần. 出世受了千萬苦,不料地母閃了空。嬰兒姹女無一個,坐在長江放悲聲。 Xuất thế thụ liễu thiên vạn khổ , Bất liệu địa mẫu thiểm liễu không. Anh nhi sá nữ vô nhất cá , Toạ tại trưởng giang phóng bi thanh. 若要母子重相見,除非子丑另開天。真經一百八十二,句句說的是真言。 Nhược yếu mẫu tử trùng tương kiến , Trừ phi tử sửu lánh khai thiên. Chân kinh nhất bách bát thập nhị , Cú cú thuyết đích thị chân ngôn.

_59_

ĐỊA MẪU TỪ BI 家家都把地母敬,五穀豐收樂太平。也無大災與大難,善男信女享康寧。 Gia gia đô bả địa mẫu kính , ngũ cốc phong thu lạc thái bình. Dã vô đại tai dữ đại nạn , Thiện nam tín nữ hưởng khang ninh. 若還不聽地母話,五榖不收吃不成。若還不信地母話,大劫大難活不成。 Nhược hoàn bất thính địa mẫu thoại , Ngũ cốc bất thu ngật bất thành. Nhược hoàn bất tín địa mẫu thoại , Đại kiếp đại nạn hoạt bất thành. 地母十月十八生,家家誦念地母經。 Địa mẫu thập ngoạt thập bát sinh , Gia gia tụng niệm địa mẫu kinh. 香燈供果排齊整,做會誦經申表文。 Hương đăng cúng quả bài tề chỉnh , Tố hội tụng kinh thân biểu văn. 有人傳娘地母經,子孫萬代受皇恩。夫人傳我地母經,代代兒女滿堂興。 Hữu nhân truyền nương địa mẫu kinh , tử tôn vạn đại thụ hoàng ân. Phu nhân truyền ngã địa mẫu kinh , đại đại nhi nữ mãn đường hưng. 人人傳我地母經,五男二女香煙生。男女忌戊敬地母,榮華富貴萬萬春。 Nhân nhân truyền ngã địa mẫu kinh , ngũ nam nhị nữ hương yên sinh. Nam nữ kỵ mậu kính địa mẫu , vinh hoa phú quý vạn vạn xuân. 處處立壇把戊忌,地母保命救眾生。方方立壇把戊忌,地母化生顯賢靈。 Xứ xứ lập đàn bả mậu kỵ , địa mẫu bảo mệnh cứu chúng sinh. Phương phương lập đàn bả mậu kỵ , địa mẫu hoá sinh hiển hiền linh. 謝恩答報虛空母,連修廟宇把香焚。塑畫母像人朝敬,纔算孝子兒女心。 Tạ ân đáp báo hư không mẫu , liên tu miếu vũ bả hương phần. Tố hoạ mẫu tượng nhân triều kính , tài toán hiếu tử nhi nữ tâm. 急早誠心把功趕,莫把銀錢放在心。 Cấp tảo thành tâm bả công cảm , mạc bả ngân tiền phóng tại tâm. 虛空地母把令掛,脫凡成聖登天庭。 Hư không địa mẫu bả linh quải , thoát phàm thành thánh đăng thiên đình. 大忠大孝大結果,大慈大仁永長生。地母勅封蓮花增,吾國果成大羅京。 Đại trung đại hiếu đại kết quả , đại từ đại nhân vĩnh trường sinh. Địa mẫu sắc phong liên hoa tăng , ngô quốc quả thành đại la kinh. 男女盡成大羅體,極樂寶殿萬古名。 Nam nữ tận thành đại la thể , cực lạc bảo điện vạn cổ danh. 無上虛空地母玄化養生保命慈尊大慈尊。 Vô thượng hư không địa mẫu huyền hoá dưỡng sinh bảo mệnh từ tôn đại từ tôn. *************** 敬誦 Con kính tụng

_60_

ĐỊA MẪU TỪ BI

地母妙經 Địa Mẫu diệu kinh 虛空地母治人倫,混沌初開母為尊。生天生地是吾根,一僧一道一俗人。 Hư Không Địa Mẫu trị nhân luân , hỗn độn sơ khai mẫu vi tôn. Sinh thiên sinh địa thị ngô căn , nhất tăng nhất đạo nhất tục nhân. 地母傳下地母經,男女印送保安寧。安得天下太平定,處處要唸地母經。 Địa Mẫu truyền hạ địa mẫu kinh , nam nữ ấn tống bảo an ninh. An đắc thiên hạ thái bình định , xứ xứ yếu niệm địa mẫu kinh. 地母傳留地母經,無有人家敬地神。地母傳說此經起,誦念真經堅可成。 Địa Mẫu truyền lưu địa mẫu kinh , vô hữu nhân gia kính địa thần. Địa mẫu truyền thuyết thử kinh khởi , tụng niệm chân kinh kiên khả thành. 人人若不敬地母,死後永坐地獄門。人生若不敬地母,造下罪孽海樣深。 Nhân nhân nhược bất kính địa mẫu , tử hậu vĩnh toạ địa ngục môn. Nhân sinh nhược bất kính địa mẫu , tạo hạ tội nghiệt hải dạng thâm. 吃穿二字從我出,誰知地母這苦辛。那個兒女把孝敬,替娘行道勸化人。 Ngật xuyên nhị tự tòng ngã xuất , thuỳ tri địa mẫu giá khổ tân. Na cá nhi nữ bả hiếu kính , thế nương hành đạo khuyến hoá nhân. 三災八難眼前到,天下人民受災星。母為兒女心費盡,兒女把娘不在心。 Tam tai bát nạn nhãn tiền đáo , thiên hạ nhân dân thụ tai tinh. Mẫu vị nhi nữ tâm phí tận , nhi nữ bả nương bất tại tâm. 世上樣樣心費到,樣樣地母都治全。七十二神都有會,惟我地母會不成。 Thế thượng dạng dạng tâm phí đáo , dạng dạng địa mẫu đô trì toàn. Thất thập nhị thần đô hữu hội , duy ngã địa mẫu hội bất thành. 天下各處都有廟,諸神會內亂紛紛。老娘廟宇無一座,反將老娘落了空。 Thiên hạ các xứ đô hữu miếu , chư thần hội nội loạn phân phân. Lão nương miếu vũ vô nhất toạ , phản tướng lão nương lạc liễu không. 天無雨來地不生,荒亂年間不太平。九歲兒女念此經,父兄相離又相生。 Thiên vô vũ lai địa bất sinh , hoang loạn niên gian bất thái bình. Cửu tuế nhi nữ niệm thử kinh , phụ huynh tương ly hựu tương sinh. 人人皆得傳此經,傳與天下老幼人。倘若有念老母經,日後康健子孫賢。 Nhân nhân giai đắc truyền thử kinh , truyền dữ thiên hạ lão ấu nhân. Thảng nhược hữu niệm lão mẫu kinh , nhật hậu khang kiện tử tôn hiền. 四時八節多重利,天和地靈多收成。男女大小都要記,誠心要念地母經。 Tứ thời bát tiết đa trùng lợi , thiên hoà địa linh đa thu thành. Nam nữ đại tiểu đô yếu ký , thành tâm yếu niệm Địa Mẫu kinh. 快快說來快快傳,眼前就是豐收年。黃臘寶燭常供獻,每月三戊要虔誠。 Khoái khoái thuyết lai khoái khoái truyền, nhãn tiền tựu thị phong thu niên. Huỳnh lạp bảo chúc thường cúng hiến , mỗi ngoạt tam mậu yếu kiền thành.

_61_

ĐỊA MẪU TỪ BI 諸凡日期都無忌,三十六戊要忌全。六盞明燈五柱香,黃錢白紙茶水清。 Chư phàm nhật kỳ đô vô kỵ , tam thập lục mậu yếu kỵ toàn. Lục trản minh đăng ngũ trụ hương , huỳnh tiền bạch chỉ trà thuỷ thanh. 男女立壇逢戊忌,立壇忌戊講分明。心記口念七次誦,處處自然得太平。 Nam nữ lập đàn phùng mậu kỵ , lập đàn kỵ mậu giảng phân minh. Tâm ký khẩu niệm thất thứ tụng , xứ xứ tự nhiên đắc thái bình. 終朝每日常時念,免得一家得病症。榖麥未黃震風起,餓死年老合後生。 Chung triêu mỗi nhật thường thời niệm , miễn đắc nhất gia đắc bệnh chứng. Cốc mạch vị huỳnh chấn phong khởi , ngã tử niên lão hợp hậu sinh. 五榖上蒼天上收,留下眾生有變成。有人念我地母經,保佑一方好修成。 Ngũ cốc thượng thương thiên thượng thu , lưu hạ chúng sinh hữu biến thành. Hữu nhân niệm ngã địa mẫu kinh , bảo hữu nhất phương hảo tu thành. 有人傳我地母經,諸神家神得安寧。天官賜福全家興,青龍白虎應接身。 Hữu nhân truyền ngã địa mẫu kinh , chư thần gia thần đắc an ninh. Thiên quan tứ phước toàn gia hưng , thanh long bạch hổ ứng tiếp thân. 十月十八午時生,辰戌丑未易改成。 Thập ngoạt thập bát ngọ thời sinh , thìn tuất sửu vị dịch cải thành. 天下男女立大會,地母聖誕方方成。 Thiên hạ nam nữ lập đại hội , địa mẫu thánh đản phương phương thành. 方方能念地母經,何愁五榖不收成。家家能念地母經,人人昇天受香燈。 Phương phương năng niệm địa mẫu kinh , hà sầu ngũ cốc bất thu thành. Gia gia năng niệm địa mẫu kinh , nhân nhân thăng thiên thụ hương đăng. 地母寶經非一經,只為天下迷眾生。一卷能消千萬劫,勝念諸佛萬卷經。 Địa mẫu bảo kinh phi nhất kinh , chỉ vị thiên hạ mê chúng sinh. Nhất quyển năng tiêu thiên vạn kiếp , thắng niệm chư Phật vạn quyển kinh. 字字光明普天照,句句改罪改冤愆。行行消災賜福壽,卷卷地母保安寧。 Tự tự quang minh phổ thiên chiếu , cú cú cải tội cải oan khiên. Hàng hàng tiêu tai tứ phước thọ , quyển quyển địa mẫu bảo an ninh. 若還不念地母經,一家在劫罪不清。人民不聽地母勸,水火大劫風又臨。 Nhược hoàn bất niệm địa mẫu kinh , nhất gia tại kiếp tội bất thanh. Nhân dân bất thính địa mẫu khuyến , thuỷ hoả đại kiếp phong hựu lâm. 老娘要把大劫免,男女不順地母心。 Lão nương yếu bả đại kiếp miễn , Nam Nữ bất thuận địa mẫu tâm. 老娘要不免劫數,為娘見死心不忍。 Lão nương yếu bất miễn kiếp số , Vị nương kiến tử tâm bất nhẫn. 左思右想娘無路,差下善惡眾神靈。善者正歸善人引,惡人歸入惡人群。 Tả tư hữu tưởng nương vô lộ , sai hạ thiện ác chúng thần linh. Thiện giả chính quy thiện nhân dẫn , ác nhân quy nhập ác nhân quần. 地母一網要打盡,連累善人受驚心。地母要現善惡法,天下方方樂道真。

_62_

ĐỊA MẪU TỪ BI Địa mẫu nhất võng yếu đả tận , liên luỹ thiện nhân thụ kinh tâm. Địa mẫu yếu hiện thiện ác pháp , thiên hạ phương phương lạc đạo Chân. 二十八宿斗柄轉,六十花甲安乾坤。天干地支常擁護,九天星斗共微神。 Nhị thập bát tú đẩu bính chuyển, lục thập hoa giáp an càn khôn. Thiên can địa chi thường ủng hộ , cửu thiên tinh đẩu cộng vi thần. 八方雷神分六四,六四天下變化神。丁甲庚辛成陣伍,天羅地網鬼魔精。 Bát phương lôi thần phân lục tứ , lục tứ thiên hạ biến hoá thần. Đinh giáp canh tân thành trận ngũ , thiên la địa võng quỷ ma tinh. 八大金剛來護法,四大天王守四門。 Bát đại kim cương lai hộ pháp , tứ đại thiên vương thủ tứ môn. 八大金剛來護法,搖天動地星斗行。 Bát đại kim cương lai hộ pháp , dao thiên động địa tinh đẩu hành. 地母收完了萬法,呼雷閃電漏了形。地母收了諸萬法,普天匝地現真人。 Địa mẫu thu hoàn liễu vạn pháp , hô lôi thiểm điện lậu liễu hình. Địa mẫu thu liễu chư vạn pháp , phổ thiên tạp địa hiện chân nhân. 地母玄妙現訣法,東西南北化蓮心。男女個個金身現,大羅天仙永不生。 Địa mẫu huyền diệu hiện quyết pháp , đông tây nam bắc hoá liên tâm. Nam nữ cá cá kim thân hiện , đại la thiên tiên, vĩnh bất sinh. 功果雙全齊赴會,蟠桃大會受榮華。永不投東把凡下,能塑地母壽長青。 Công quả song toàn tề phó hội , bàn đào đại hội thụ vinh hoa. Vĩnh bất đầu đông bả phàm hạ , năng tố địa mẫu thọ trường thanh. 無上虛空地母玄化養身保命慈尊大慈尊(廿四叩) Vô thượng hư không địa mẫu huyền hoá dưỡng thân bảo mệnh từ tôn đại từ tôn (niệm tứ khấu) 願以此功德,普及於一切,虔誠敬地母,永遠享福澤。 Nguyện dĩ thử công đức , phổ cập ư nhất thiết , kiền thành kính địa mẫu , vĩnh viễn hưởng phước trạch. 無上虛空地母言養身保命真經卷終 Vô thượng hư không địa mẫu ngôn dưỡng thân bảo mệnh Chân kinh quyển chung. 資料來源: 寶湖宮天地堂地母至尊總廟 Tư liệu lai nguyên : Bảo hồ Cung, Thiên Địa đường, Địa Mẫu chí tôn tổng miếu. 標籤: 地母妙經, 地母真經, 地母至尊總 廟, 寶湖宮, 虛空地母 Tiêu tiêm : Địa mẫu diệu kinh , địa mẫu chân kinh , địa mẫu chí tôn tổng miếu , bảo hồ cung , hư không địa mẫu

_63_

ĐỊA MẪU TỪ BI ======================= 炫懿普德門 Huyễn ý phổ đức môn 太上老君說五谷妙經 Thái thượng lão quân thuyết ngũ cốc diệu kinh 爾時盤古滅度 之後。 Nhĩ thời bàn cổ diệt độ chi hậu. 復有人民。未有五穀。食草木為生活。炎帝王復立。 phục hữu nhân dân. vị hữu ngũ cốc. thực thảo mộc vị sinh hoạt. viêm đế vương phục lập. 天地世界三千七百年。所為出處。住七十二山。 thiên địa thế giới tam thiên thất bách niên. sở vị xuất xứ. trụ thất thập nhị sơn. 尋覓五谷。口嘗百草惡毒。 唇舌燋爛。然後炎帝王往一羊山。 tầm mịch ngũ cốc. khẩu thường bách thảo ác độc. thần thiệt tiêu lạn. nhiên hậu viêm đế vương vãng nhất dương sơn. 尋得粟子一粒。計在棗樹中。八種得成粟谷。 tầm đắc túc tử nhất lạp. kế tại tảo thụ trung. bát chủng đắc thành túc cốc. 大梁山中尋得稻谷一粒。計在柳樹中。 đại lương sơn trung tầm đắc đạo cốc nhất lạp. kế tại liễu thụ trung. 七種得成稻谷。朱石山尋得小豆一顆。 thất chủng đắc thành đạo cốc. chu thạch sơn tầm đắc tiểu đậu nhất khoả. 計在李樹中。六種得成小豆。 kế tại lý thụ trung. lục chủng đắc thành tiểu đậu. 維石山尋得大豆一粒。計在槐樹中。 五種得成大豆。 duy thạch sơn tầm đắc đại đậu nhất lạp. kế tại hoè thụ trung. ngũ chủng đắc thành đại đậu. 長石山尋得大小麥二粒。計在桃樹中。四種纔成大小麥。 trưởng thạch sơn tầm đắc đại tiểu mạch nhị lạp. kế tại đào thụ trung. tứ chủng tài thành đại tiểu mạch.

_64_

ĐỊA MẪU TỪ BI 武石山尋得芝麻一粒。計在荊樹中。數種纔成芝麻。初種五谷皆 因六樹而生。 vũ thạch sơn tầm đắc chi ma nhất lạp. kế tại kinh thụ trung. số chủng tài thành chi ma. sơ chủng ngũ cốc giai nhân lục thụ nhi sinh. 炎帝王菩薩往七十二山中。尋覓五谷就土。遍滿天下。救度人民 衣食父母。 viêm đế vương bồ tát vãng thất thập nhị sơn trung. tầm mịch ngũ cốc tựu thổ. biến mãn thiên hạ. cứu độ nhân dân y thực phụ mẫu. 神農黃帝登位。置立天下江河社稷。五谷大王。 thần nông huỳnh đế đăng vị. trí lập thiên hạ giang hà xã tắc. ngũ cốc đại vương. 田公田母掌管苗稼。 初分天地之時。人民慈善。忠良孝順。 điền công điền mẫu chưởng quản miêu giá. sơ phân thiên địa chi thời. nhân dân từ thiện. trung lương hiếu thuận. 晝晴夜雨。五谷大收。風調雨順。 國泰民安。不生盜賊。 trú tình dạ vũ. ngũ cốc đại thu. phong điều vũ thuận. quốc thái dân an. bất sinh đạo tặc. 五谷一粒重三兩。見得眾生拋撒作賤。五谷不收。 炎帝天心生煩惱。 ngũ cốc nhất lạp trọng tam lạng. kiến đắc chúng sinh phao tán tác tiện. ngũ cốc bất thu. viêm đế thiên tâm sinh phiền não. 連年遭橫。欲晴不晴合雨不雨。蟲蝗旱澇。五谷不收。 liên niên tao hoạnh. dục tình bất tình hợp vũ bất vũ. trùng huỳnh hạn lạo. ngũ cốc bất thu. 饑荒餓死皆因作賤。世間人民。不知當來受 苦三千七百年。萬死萬生。 cơ hoang ngạ tử giai nhân tác tiện. thế gian nhân dân. bất tri đương lai thụ khổ tam thiên thất bách niên. vạn tử vạn sinh. 始得五谷滿天下。衣食王菩薩。流傳此經。不可思議。善哉善哉 。善男子善女人。 thỉ đắc ngũ cốc mãn thiên hạ. y thực vương bồ tát. lưu truyền thử kinh. bất khả tư nghị. thiện tai thiện tai. thiện nam tử thiện nữ nhân.

_65_

ĐỊA MẪU TỪ BI 每逢出種下子之時。虔備香燈。請僧善友於家。看誦此經。神聖 歡喜。苗稼長旺。 mỗi phùng xuất chủng hạ tử chi thời. kiền bị hương đăng. thỉnh tăng thiện hữu ư gia. khán tụng thử kinh. thần thánh hoan hỷ. miêu giá trưởng vượng. 五谷成收。獲福無量。佛說此經己。天人阿修羅聞。 ngũ cốc thành thu. hoạch phước vô lượng. phật thuyết thử kinh kỷ. thiên nhân a tu la văn. 佛所說。皆大歡喜。信受奉行。作禮而退。 phật sở thuyết. giai đại hoan hỷ. tín thụ phụng hành. tác lễ nhi thoái. 五谷經終 ngũ cốc kinh chung 五谷讚 ngũ cốc tán 虔誠頂禮 kiền thành đỉnh lễ 五谷經來五谷經。五谷原來有根生。天地本是我父母。日月星光 助我成。 ngũ cốc kinh lai ngũ cốc kinh. ngũ cốc nguyên lai hữu căn sinh. thiên địa bổn thị ngã phụ mẫu. nhật nguyệt tinh quang trợ ngã thành. 五谷苦楚言不盡。五谷原來養命根。君王重我五谷經。萬里江山 樂太平。 ngũ cốc khổ sở ngôn bất tận. ngũ cốc nguyên lai dưỡng mệnh căn. quân vương trọng ngã ngũ cốc kinh. vạn lý giang sơn lạc thái bình. 官員重我五谷經。子孫世代贈乾坤。讀書重我五谷經。龍虎榜上 中頭名。 quan viên trọng ngã ngũ cốc kinh. tử tôn thế đại tặng kiền khôn. độc thư trọng ngã ngũ cốc kinh. long hổ bảng thượng trung đầu danh. 生意重我五谷經。朝朝每日得金銀。個個神靈有人敬。那個敬我 五谷神。 sinh ý trọng ngã ngũ cốc kinh. triêu triêu mỗi nhật đắc kim ngân. cá cá thần linh hữu nhân kính. na cá kính ngã ngũ cốc thần.

_66_

ĐỊA MẪU TỪ BI 五谷八月初一生。家家念佛點明燈。為人在世要敬神。不敬神靈 枉為人。 ngũ cốc bát nguyệt sơ nhất sinh. gia gia niệm phật điểm minh đăng. vị nhân tại thế yếu kính thần. bất kính thần linh uổng vị nhân. 留與天下九洲地。無有五谷活不成。家有一卷五谷經。一生衣祿 不受貧。 lưu dữ thiên hạ cửu châu địa. vô hữu ngũ cốc hoạt bất thành. gia hữu nhất quyển ngũ cốc kinh. nhất sinh y lộc bất thụ bần. 五谷原是聖經寶。勝如天下寶合珍。朝中無我無世界。世間無我 無乾坤。 ngũ cốc nguyên thị thánh kinh bảo. thắng như thiên hạ bảo hợp trân. triêu trung vô ngã vô thế giới. thế gian vô ngã vô kiền khôn. 五谷根生敘不盡。勸人敬神保安寧。 ngũ cốc căn sinh tự bất tận. khuyến nhân kính thần bảo an ninh. 五谷天尊大天尊 Ngũ cốc thiên tôn đại thiên tôn 三稱八叩 tam xưng bát khấu ---------------眼光真經 nhãn quang chân kinh 佛說眼光經眼明是心燈 Phật thuyết nhãn quang kinh nhãn minh thị tâm đăng 西方舍利塔 Tây phương xá lợi tháp 恒沙厚世大藏經 Hằng sa hậu thế đại tạng kinh 千眼千手留地章 Thiên nhãn thiên thủ lưu địa chương 大智菩薩放毫光 Đại trí bồ tát phóng hào quang

_67_

ĐỊA MẪU TỪ BI 文殊菩薩騎獅子 Văn thù bồ tát kỵ sư tử 普賢菩薩坐象王 Phổ hiền bồ tát toạ tượng vương 大地空羅漢 Đại địa không la hán 眼翳雲霧一掃光 Nhãn ế vân vụ nhất tảo quang 南無尊佛 摩訶般若波羅密 Nam mô Tôn Phật ma ha bát nhã ba la mật 眼光真經終 Nhãn quang chân kinh chung =======================

_68_

_69_

_70_

_71_

_72_

_73_

_74_

_75_

_76_

_77_

_78_

_79_

_80_

_81_

_82_

_83_

_84_

Thân tại vân sơn đạo tại Cung, 身在雲山道在躬. Uyên nhiên thần khí tối trầm hùng, Trứ thư thanh đảo nghiêm trì ngoại, Chỉ viêm Đan Điền tĩnh thủ trung, Nhân cánh xưng vi đại viện trường, Ngã thiên hý hoán trường thành công, Phiên li "đạo đức" bằng tiên chú, 藩籬《道德》憑箋注 Khế ngộ chư kinh ngữ tổng đồng. —— Thiên Tiên Bạch Quỳnh Quản bái thư 天仙白瓊琯拜書 —— "Đạo đức" - Thái Thượng Đạo Tổ Đạo Đức Kinh | ||| ||||| V V V ----------------------------------------------------藩籬《道德》: phiên li "đạo đức": Hàng rào quanh nhà "đạo đức". Khế ngộ chư kinh ngữ tổng đồng. —— Thiên Tiên Bạch Quỳnh Quản bái thư ——

-----------------------------------------------------

NGHI THỨC CÔNG PHU KHUYA NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN Án lam tóa ha. (3 lần) TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) CÚNG HƯƠNG Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới, Cúng dường nhất thiết Phật, Tôn pháp chư Bồ Tát, Vô biên Thanh Văn chúng, Cập nhất thiết Thánh Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật sự, Phổ huân chư chúng sinh, Giai phát Bồ Đề tâm, Viễn ly chư vọng nghiệp, Viên thành Vô Thượng đạo. KỲ NGUYỆN Ðệ tử chúng đẳng, nguyện thập phương thường trú Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, Từ Bi gia hộ đệ tử… pháp danh… Bồ Đề tâm kiên cố, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, dữ pháp giới chúng sinh, nhất thời đồng đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. TÁN PHẬT

_85_

Pháp vương Vô Thượng Tôn Tam giới vô luân thất Thiên nhơn chi Ðạo Sư Tứ sinh chi Từ phụ Ư nhất niệm quy y Năng diệt tam kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán thán Ức kiếp mạc năng tận. HƯƠNG TÁN Lư hương sạ nhiệt, Pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tuỳ xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân. Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 lần) QUÁN TƯỞNG Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như Ðế Châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung. Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ. – Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. (1 lạy) – Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ðương Lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn hội thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) – Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Nguyện Ðịa Tạng vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Ðại Hải chúng Bồ Tát. (1 lạy) (Đứng ngay ngắn tụng Lăng Nghiêm)

CHÚ LĂNG NGHIÊM Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) Diệu trạm tổng trì bất động tôn, Thủ Lăng Nghiêm Vương thế hi hữu, Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng. Bất lịch Tăng Kỳ hoạch pháp thân, Nguyện kim đắc quả thành bảo vương, Hườn độ như thị Hằng sa chúng, Tương thử thâm tâm phụng trần sát, Thị tắc danh vi báo Phật

_86_

ân, Phục thỉnh Thế Tôn vị chứng minh, Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập, Như nhất chúng sinh vị thành Phật, Chung bất ư thử thủ Nê Hoàn. Ðại hùng đại lực đại Từ Bi, Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc, Linh ngã tảo đăng Vô Thượng giác, Ư thập phương giới tọa đạo tràng; Thuấn Nhã Đa tánh khả tiêu vong, Thước Ca Ra tâm vô động chuyển. Nam mô thường trụ thập phương Phật. Nam mô thường trụ thập phương Pháp. Nam mô thường trụ thập phương Tăng. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Phật đảnh Thủ Lăng Nghiêm. Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát. Nhĩ thời Thế Tôn, tùng nhục kế trung, dõng bá bảo quang, quang trung dõng xuất, thiên diệp bảo liên, hữu hóa Như Lai, tọa bảo hoa trung, đảnh phóng thập đạo, bá bảo quang minh, nhất nhất quang minh, giai biến thị hiện, thập Hằng Hà sa, Kim Cang Mật Tích, kình sơn trì sử, biến hư không giới, đại chúng ngưỡng quan, úy ái kiêm bảo, cầu Phật ai hựu, nhất tâm thính Phật, vô kiến đảnh tướng, phóng quang Như Lai, tuyên thuyết thần chú:

ĐỆ NHỨT HỘI: Nam mô tát đát tha tô già đa da, a ra ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam. Nam mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ. Nam mô tát đa nẫm tam miệu tam bồ đà cu tri nẫm. Ta xá ra bà ca tăng già nẫm. Nam mô lô kê a la hán đa nẫm. Nam mô tô lô đa ba na nẫm. Nam mô ta yết rị đà già di nẫm. Nam mô lô kê tam miệu già đa nẫm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẫm. Nam mô đề bà ly sắt nỏa. Nam mô tất đà da, tỳ địa da đà ra ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẫm. Nam mô bạt ra ha ma ni. Nam mô nhơn đà ra da. Nam mô bà già bà đế, lô đà ra da, ô ma bát đế, ta hê dạ da. Nam mô bà già bà đế. Na ra dã noa da. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra. Nam mô tất yết rị đa da.

_87_

Nam mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Địa rị bát lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà đế. Đa tha già đa cu ra da. Nam mô bát đầu ma cu ra da. Nam mô bạt xà ra cu ra da. Nam mô ma ni cu ra da. Nam mô già xà cu ra da. Nam mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà da, đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế. Nam mô a di đa bà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, lặc đát na kê đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều Nam mô tát yết rị đa. Ế đàm bà già bà đa, tát đát tha già đô sắt ni sam, tát đát đa bát đát lam. Nam mô a bà ra thị đam, bát ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạt ra bí địa da sất đà nễ, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nãnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắt tra, đột tất phạp bát na nễ phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẫm, yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắt tra băng xá đế nẫm, na xoa sát đát ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắt tra nẫm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nễ bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đát ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra, ma ha bát ra chiến trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nễ, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá rô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bát ra chất đa, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma rô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra, a bát ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắt tát đa giá tỳ địa

_88_

da kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ rô giá na cu rị da, dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra, sát sa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ NHỊ HỘI: Ô hồng, rị sắt yết noa, bát lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắt ni sam. Hổ hồng, đô lô ung, chiên bà na. Hổ hồng, đô lô ung, tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung, ba ra sắt địa da tam bát xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm tát đát tha già đô sắt ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca, ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, mạn trà ra, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ TAM HỘI: Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắt xoa bà dạ, a xá nễ bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già, ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàn trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẫm, yết bà ha rị nẫm, rô địa ra ha rị nẫm, mang ta ha rị nẫm, mê đà ha rị nẫm, ma xà ha rị nẫm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẫm, tỳ đa ha rị nẫm, bà đa ha rị nẫm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẫm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra

_89_

dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra dà noa bát đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a la hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nễ, cu hê dạ, cu hê dạ, ca địa bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra xoa vỏng, bà già phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ TỨ HỘI: Bà già phạm, tát đát đa bát đát ra, Nam mô tuý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đát rị, thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ hồng. Hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, bà ra ba ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà càn thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất mạ lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn, tát bà tỷ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn; tỳ địa dạ giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nễ tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa. Nam mô ta yết rị đa dạ phấn. Tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nễ duệ phấn, diễn kiết chất, Tát đỏa bà tả, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.

ĐỆ NGŨ HỘI: Đột sắt tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tả ha ra, bát ba chất đa, đột sắt tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, mộ đà ra nan địa ca yết ra ha,

_90_

a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha, thập Phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca, thất lệ sắt mật ca, ta nễ bát đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắt tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô rô du lam, thường già du lam, hắt tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bát ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột rô ca kiến đốt rô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bát lô, ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra, kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắt chất ca, tát bà na cu ra. Tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bát đát ra, ma ha bạt xà lô sắt ni sam, ma ha bát lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa. Tỳ đà da bàn đàm ca lô di. đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đát điệt tha. Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nễ, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, Ta bà ha. (3 lần)

CHÚ ĐẠI BI Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ Đề Tát đỏa bà da. Ma ha Tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị Ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà dà. Ma phạt dạt đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha Bồ Đề Tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na. Sa bà ha. Tất đà dạ. Sa bà ha. Ma ha tất đà dạ. Sa bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì. Sa bà ha. Ma ra na ra. Sa bà ha. Tất ra Tăng a mục khư da. Sa bà ha. Sa bà Ma ha a tất đà dạ. Sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ. Sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ. Sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ. Sa bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ. Sa bà ha. Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ. Sa bà ha. Án tất điện đô. Mạn đà ra. Bạt đà da. Sa bà ha. Nam mô Đại Từ Đại Bi quảng đại linh cảm cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát Ma ha tát. (Niệm nhiều ít tùy thích).

_91_

THẬP CHÚ 1. NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ÐÀ LA NI:

Nam mô Phật đà da. Nam mô Ðạt ma da. Nam mô Tăng dà da. Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát, cụ Đại Bi tâm giả. Ðát điệt tha. Án chước yết ra phạt để chấn đa mạc ni, Ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắt tra thước ra a yết rị, sa dạ hồng, phấn ta ha. Án, bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lặc đà, bát đẳng mế hồng. 2. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ:

Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẩm. Á bát ra để, hạ đa xá ta nẳng nẩm. Ðát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắt sá, để sắt sá, sắt trí rị, sắt trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ ha. 3. CÔNG ÐỨC BẢO SƠN THẦN CHÚ:

Nam mô Phật đà da. Nam mô Ðạt ma da. Nam mô Tăng dà da. Án, tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. 4. PHẬT MẪU CHUẨN ÐỀ THẦN CHÚ:

Khể thủ Quy y Tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi. Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề, duy nguyện Từ Bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẫm Tam Miệu Tam Bồ Đề, cu chi nẫm, đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Ðề, ta bà ha. 5. THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUYẾT ÐỊNH QUANG MINH VƯƠNG ÐÀ LA NI:

Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nễ, thiệt chất đạp, điệp tả ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nễ dã tháp. Án, tát rị ba, tang tư cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt. 6. DƯỢC SƯ QUÁN ÐẢNH CHƠN NGÔN:

Nam mô bạt dà phạt đế, bệ sát xả, lủ rô thích lưu ly, bát lặt bà, hắt ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắt đế, Tam Miệu Tam bột đà da. Ðát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xả, tam một yết đế tóa ha. 7. QUÁN ÂM LINH CẢM CHƠN NGÔN:

Án, ma ni bác di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp, cát nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết, thuyết ra da, tá ha. 8. THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN:

Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, Ma ha dà đế, chơn lăng càng đế, ta bà ha. 9. VÃNG SINH TỊNH ÐỘ THẦN CHÚ:

Nam mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địệt dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Già di nị già già na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. 10. THIỆN THIÊN NỮ CHÚ:

Nam mô Phật Ðà. Nam mô Ðạt Mạ. Nam mô Tăng Dà. Nam mô thất rị, Ma ha để tỷ da, đát nễ dã tha, ba rị phú lầu na giá rị, tam mạn đà, đạt xá ni, Ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, Ma ha ca rị dã, ba nễ ba ra,

_92_

ba nễ tát rị phạ lặt tha, tam mạn đà, tu bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, Ma ha tỳ cổ tất đế, Ma ha Di Lặc đế, lâu phả Tăng Kỳ đế, hê đế tỷ, Tăng Kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nậu, đà la ni. MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng: bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh, diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề Tát đỏa y Bát nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị Vô Thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la Tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.” Ma ha Bát nhã Ba La Mật Đa (3 lần) TÁN PHẬT Thượng lai hiện tiền, thanh tịnh chúng. Phúng tụng Lăng Nghiêm, chư phẩm chú. Hồi hướng Tam Bảo, chúng Long, Thiên. Thủ hộ Già Lam chư Thánh chúng. Tam đồ bát nạn, cu ly khổ. Tứ ân, tam hữu, tận triêm ân. Quốc giới an ninh, binh cách tiêu. Phong điều võ thuận, dân an lạc. Ðại chúng huân tu, hi thắng tấn. Thập Địa đốn siêu, vô nan sự. Tam môn thanh tịnh, tuyệt phi ngu. Ðàn tín quy y tăng phước huệ. Sát trần tâm niệm khả sổ tri. Ðại Hải trung thủy khả ẩm tận. Hư không khả lượng phong khả kế. Vô năng thuyết tận Phật công đức. Thiên thượng thiên hạ, vô như Phật. Thập phương thế giới diệc vô tỷ. Thế gian sở hữu ngã tận kiến. Nhất thiết vô hữu như Phật giả. Nam mô Ta Bà Thế giới, tam giới đạo sư, tứ sinh từ phụ, nhơn thiên giáo chủ, thiên bá ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần) Nam mô Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Ðạo Tràng Hội Thượng Phật, Bồ Tát. (3 lần)

(Quỳ đọc) Ðệ tử chúng đẳng. Tùy thuận tu tập. Phổ Hiền Bồ Tát. Thập chủng đại nguyện: Nhất giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như Lai, Tam giả quảng tu cúng dường, Tứ giả Sám Hối nghiệp chướng, Ngũ giả tùy hỉ công đức, Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,

_93_

Thất giả thỉnh Phật trụ thế, Bát giả thường tùy Phật học, Cửu giả hằng thuận chúng sinh, Thập giả phổ giai hồi hướng. BÀI TÁN PHẬT Tán lễ Thích Tôn Vô Thượng Năng nhơn. Tăng Kỳ cửu viễn tu chơn. Ðẩu Suất giáng thần, Trường từ bửu vị kim luân, Tọa Bồ Đề tòa đại phá ma quân. Nhất đổ minh tinh đạo thành, giáng pháp lâm. Tam thừa chúng đẳng qui tâm, Vô sinh dĩ chứng. Hiện tiền chúng đẳng qui tâm. Vô sinh tốc chứng. Tứ sinh cửu hữu, đồng đăng Hoa Tạng huyền môn, bát nạn, tam đồ cọng nhập Tỳ Lô tánh hải. HỒI HƯỚNG Phúng kinh công đức thù thắng hạnh. Vô biên thắng phước giai hồi hướng. Phổ nguyện pháp giới chư chúng sinh. Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ, Thế thế thường hành Bồ Tát đạo. Nguyện sinh Tây Phương Tịnh Độ trung, Cửu phẩm Liên hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhất thiết, Ngã đẳng dữ chúng sinh, Giai cọng thành Phật đạo. Nam mô A Di Đà Phật PHỤC NGUYỆN: Cây Bồ Đề cao sồ sộ dìm đà che mát khắp cả Tam thiên. Hoa Ưu Bát nở liền rực rỡ thơm tho cùng thế giới. Nào bổn đạo xóm làng qua lại đều nhờ mưa pháp thấm căn lành. Nào Tổ tiên, nội ngoại vong linh đều đến Liên trì vào Hội Thánh. PHỔ NGUYỆN: Cả trăm họ bỏ tà quy chánh, Suốt bốn loài nhập Thánh siêu phàm. Bao nhiêu phước thiện thảy noi làm. Tất cả chúng sinh đồng thành Phật đạo. NGUYỆN CHO: Thế giới hòa bình, nhân dân an lạc. Mưa thuận gió hòa, mùa màng thịnh vượng. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

_94_

TAM QUY Y Tự quy y Phật. Đương nguyện chúng sinh. Thể giải đại đạo. Phát Vô Thượng tâm. (1 lạy) Tự quy y Pháp. Đương nguyện chúng sinh. Thâm nhập kinh tạng. Trí huệ như hải. (1 lạy) Tự quy y Tăng. Đương nguyện chúng sinh. Thống lý đại chúng. Nhất thiết vô ngại. (1 lạy)

楞严咒 【全咒】 南无楞严会上佛菩萨(三称) 妙湛总持不动尊 首楞严王世希有 销我亿劫颠倒想 不历僧祗获法身 愿今得果成宝王 还度如是恒沙众 将此深心奉尘刹 是则名为报佛恩 伏请世尊为证明 五浊恶世誓先入 如一众生未成佛 终不于此取泥洹 大雄大力大慈悲 希更审除微细惑 令我早登无上觉 于十方界坐道场 舜若多性可销亡 烁迦罗心无动转 南无常住十方佛 南无常住十方法 南无常住十方僧 南无释迦牟尼佛 南无佛顶首楞严 南无观世音菩萨 南无金刚藏菩萨 尔时世尊。从肉髻中。涌百宝光。光中涌出。千叶宝莲。有化如来。坐宝华中。顶放 十道。百宝光明。一一光明。皆遍示现。十恒河沙。金刚密迹。擎山持杵。遍虚空界 。大众仰观。畏爱兼抱。求佛哀佑。一心听佛。无见顶相。放光如来。宣说神咒。

【唐天竺沙门般刺密谛等大师根据古梵文音译】【' '字念】 【楞严咒】 南无萨怛他,苏伽多耶,阿啰诃帝,三藐三菩陀写。萨怛他,佛陀俱胝瑟尼钐。南无 萨婆,勃陀勃地,萨跢鞞弊。南无萨多南,三藐三菩陀,俱知喃。娑舍啰婆迦,僧伽 喃。南无卢鸡阿罗汉哆喃。南无苏卢多波那喃。南无娑羯唎陀伽弥喃。南无卢鸡三藐 伽哆喃。三藐伽波啰,底波多那喃。南无提婆离瑟赧。南无悉陀耶,毗地耶,陀啰离 瑟赧。舍波奴,揭啰诃,娑诃娑啰摩他喃。南无跋啰诃摩尼。南无因陀啰耶。南无婆 伽婆帝。嚧陀啰耶。乌摩般帝。娑酰夜耶。南无婆伽婆帝。那啰野拏耶。槃遮摩诃三 慕陀啰。南无悉羯唎多耶。南无婆伽婆帝。摩诃迦啰耶。地唎般剌那伽啰。毗陀啰波 拏迦啰耶。阿地目帝。尸摩舍那泥,婆悉泥。摩怛唎伽拏。南无悉羯唎多耶。南无婆 伽婆帝。多他伽跢俱啰耶。南无般头摩俱啰耶。南无跋阇啰俱啰耶。南无摩尼俱啰耶 。南无伽阇俱啰耶。南无婆伽婆帝。帝唎茶,输啰西那。波啰诃啰拏啰阇耶。跢他伽 多耶。南无婆伽婆帝。南无阿弥多婆耶。跢他伽多耶。阿啰诃帝。三藐三菩陀耶。南 无婆伽婆帝。阿刍鞞耶。跢他伽多耶。阿啰诃帝。三藐三菩陀耶。南无婆伽婆帝。鞞 沙阇耶,俱卢吠柱唎耶。 般啰婆啰阇耶。跢他伽多耶。南无婆伽婆帝。三补师毖多。萨怜捺啰剌阇耶。跢他伽

_95_

多耶。阿啰诃帝。三藐三菩陀耶。南无婆伽婆帝。舍鸡野母那曳。跢他伽多耶。阿啰 诃帝。三藐三菩陀耶。南无婆伽婆帝。剌怛那鸡都啰阇耶。跢他伽多耶。阿啰诃帝。 三藐三菩陀耶。帝瓢,南无萨羯唎多。翳昙婆伽婆多。萨怛他伽都瑟尼钐。萨怛多般 怛嚂。南无阿婆啰视耽。般啰帝扬歧啰。萨啰婆,部多揭啰诃。尼揭啰诃,羯迦啰诃 尼。跋啰毖地耶。叱陀你,阿迦啰,密唎柱,般唎怛啰耶,儜揭唎。萨啰婆,盘陀那 ,目叉尼。萨啰婆,突瑟咤。突悉乏,般那你伐啰尼。赭都啰,失帝南。羯啰诃,娑 诃萨啰若阇。毗多崩娑那羯唎。阿瑟咤冰舍帝南。那叉刹怛啰若阇。波啰萨陀那羯唎 。阿瑟咤南。摩诃揭啰诃若阇。毗多崩萨那羯唎。萨婆舍都嚧,你婆啰若阇。呼蓝突 悉乏,难遮那舍尼。毖沙舍,悉怛啰。阿吉尼,乌陀迦啰若阇。阿般啰视多具啰。摩 诃般啰战持。摩诃迭多。摩诃帝阇。摩诃税多阇婆啰。摩诃跋啰盘陀啰,婆悉你。阿 唎耶多啰。毗唎俱知。誓婆毗阇耶。跋阇啰摩礼底。毗舍嚧多。勃腾罔迦。跋阇啰制 喝那阿遮。摩啰制婆,般啰质多。跋阇啰擅持。毗舍啰遮。扇多舍,鞞提婆,补视多 。苏摩嚧波。摩诃税多。阿唎耶多啰。摩诃婆啰,阿般啰。跋阇啰商揭啰制婆。 跋阇啰俱摩唎,俱蓝陀唎。跋阇啰喝萨多遮。毗地耶,乾遮那,摩唎迦。啒苏母,婆 羯啰多那。鞞嚧遮那,俱唎耶。夜啰菟,瑟尼钐。毗折蓝婆摩尼遮。跋阇啰迦那迦波 啰婆。嚧阇那,跋阇啰顿稚遮。税多遮,迦摩啰。刹奢尸,波啰婆。翳帝夷帝。母陀 啰羯拏。娑鞞啰忏。掘梵都。印兔那么么写。 乌 。唎瑟揭拏。般剌舍悉多。萨怛他,伽都瑟尼钐。虎 都卢雍。瞻婆那。虎 都 卢雍。悉耽婆那。虎 都卢雍。波啰瑟地耶,三般叉,拏羯啰。虎 都卢雍。萨婆药 叉,喝啰刹娑。揭啰诃若阇。毗腾崩萨那羯啰。虎 都卢雍。者都啰,尸底南。揭啰 诃,娑诃萨啰南。毗腾崩萨那啰。虎 都卢雍。啰叉。婆伽梵。萨怛他,伽都瑟尼钐 。波啰点阇吉唎。摩诃娑诃萨啰。勃树娑诃萨啰,室唎沙。俱知娑诃萨泥,帝隶。阿 弊提视婆唎多。咤咤罂迦。摩诃跋阇嚧陀啰。帝唎菩婆那。曼茶啰。乌 。娑悉帝 薄婆都。么么。印兔那么么写。 啰阇婆夜。主啰跋夜。阿祇尼婆夜。乌陀迦婆夜。毗沙婆夜。舍萨多啰婆夜。婆啰斫 羯啰婆夜。突瑟叉婆夜。阿舍你婆夜。阿迦啰密唎柱婆夜。陀啰尼部弥剑,波伽波陀 婆夜。乌啰迦婆多婆夜。剌阇坛茶婆夜。那伽婆夜。毗条怛婆夜。苏波啰拏婆夜。药 叉揭啰诃。啰叉私揭啰诃。毕唎多揭啰诃。毗舍遮揭啰诃。部多揭啰诃。鸠槃茶揭啰 诃。补单那揭啰诃。迦咤补单那揭啰诃。悉乾度揭啰诃。阿播悉摩啰揭啰诃。乌檀摩 陀揭啰诃。车夜揭啰诃。酰唎婆帝揭啰诃。社多诃唎南。揭婆诃唎南。嚧地啰诃唎南 。忙娑诃唎南。谜陀诃唎南。摩阇诃唎南。阇多诃唎女。视比多诃唎南。毗多诃唎南 。婆多诃唎南。阿输遮诃唎女。质多诃唎女。帝钐萨鞞钐。萨婆揭啰诃南。毗陀耶阇 ,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。波唎跋啰者迦,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。 茶演尼,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。摩诃般输般怛夜。嚧陀啰,讫唎 担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。那啰夜拏,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡 啰夜弥。怛埵伽嚧茶西,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。摩诃迦啰,摩怛 唎伽拏,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。迦波唎迦,讫唎担。毗陀夜阇, 嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。阇夜羯啰,摩度羯啰。萨婆啰他娑达那,讫唎担。毗陀夜阇, 嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。赭咄啰,婆耆你,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。 毗唎羊,讫唎知。难陀鸡沙啰,伽拏般帝。索酰夜,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。 鸡啰夜弥。那揭那舍啰婆拏,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。阿罗汉,讫 唎担。 毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜弥。毗多啰伽,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰夜 弥。跋阇啰波你。具酰夜,具酰夜。迦地般帝,讫唎担。毗陀夜阇,嗔陀夜弥。鸡啰 夜弥。啰叉罔。婆伽梵。印兔那么么写。 婆伽梵。萨怛多般怛啰。南无粹都帝。阿悉多那啰剌迦。波啰婆,悉普咤。毗迦萨怛 多钵帝唎。什佛啰什佛啰。陀啰陀啰。频陀啰频陀啰,嗔陀嗔陀。虎 。虎 。泮咤 泮咤泮咤泮咤泮咤。娑诃。酰酰泮。阿牟迦耶泮。阿波啰提诃多泮。婆啰波啰陀泮。

_96_

阿素啰,毗陀啰,波迦泮。萨婆提鞞弊泮。萨婆那伽弊泮。萨婆药叉弊泮。萨婆乾闼 婆弊泮。萨婆补丹那弊泮。迦咤补丹那弊泮。萨婆突狼枳帝弊泮。萨婆突涩比犁,讫 瑟帝弊泮。萨婆什婆利弊泮。萨婆阿播悉摩犁弊泮。萨婆舍啰婆拏弊泮。萨婆地帝鸡 弊泮。萨婆怛摩陀继弊泮。萨婆毗陀耶,啰誓遮犁弊泮。阇夜羯啰,摩度羯啰。萨婆 啰他娑陀鸡弊泮。毗底夜,遮唎弊泮。者都啰,缚耆你弊泮。跋阇啰,俱摩唎。毗陀 夜,啰誓弊泮。摩诃波啰丁羊,乂耆唎弊泮。跋阇啰商羯啰夜。波啰丈耆啰阇耶泮。 摩诃迦啰夜。摩诃末怛唎迦拏。南无娑羯唎多夜泮。毖瑟拏婢曳泮。勃啰诃牟尼曳泮 。阿耆尼曳泮。摩诃羯唎曳泮。羯啰檀迟曳泮。蔑怛唎曳泮。唠怛唎曳泮。遮文茶曳 泮。羯逻啰怛唎曳泮。迦般唎曳泮。阿地目质多,迦尸摩舍那。婆私你曳泮。演吉质 。萨埵婆写。么么印兔那么么写。 突瑟咤质多。阿末怛唎质多。乌阇诃啰。伽婆诃啰。嚧地啰诃啰。婆娑诃啰。摩阇诃 啰。阇多诃啰。视毖多诃啰。跋略夜诃啰。乾陀诃啰。布史波诃啰。颇啰诃啰。婆写 诃啰。般波质多。突瑟咤质多。唠陀啰质多。药叉揭啰诃。啰刹娑揭啰诃。闭隶多揭 啰诃。毗舍遮揭啰诃。部多揭啰诃。鸠槃茶揭啰诃。悉乾陀揭啰诃。乌怛摩陀揭啰诃 。车夜揭啰诃。阿播萨摩啰揭啰诃。宅袪革,茶耆尼揭啰诃。唎佛帝揭啰诃。阇弥迦 揭啰诃。舍俱尼揭啰诃。姥陀啰,难地迦揭啰诃。阿蓝婆揭啰诃。乾度波尼揭啰诃。 什伐啰,堙迦酰迦。坠帝药迦。怛隶帝药迦。者突讬迦。尼提什伐啰,毖钐摩什伐啰 。薄底迦。鼻底迦。室隶瑟密迦。娑你般帝迦。萨婆什伐啰。室嚧吉帝。末陀鞞达嚧 制剑。阿绮嚧钳。目佉嚧钳。羯唎突嚧钳。揭啰诃羯蓝。羯拏输蓝。惮多输蓝。迄唎 夜输蓝。末么输蓝。跋唎室婆输蓝。毖栗瑟咤输蓝。乌陀啰输蓝。羯知输蓝。跋悉帝 输蓝。邬嚧输蓝。常伽输蓝。喝悉多输蓝。跋陀输蓝。娑房盎伽,般啰丈伽输蓝。部 多毖哆茶。茶耆尼,什婆啰。陀突嚧迦,建咄嚧吉知,婆路多毗。萨般嚧诃凌伽。输 沙怛啰,娑那羯啰。毗沙喻迦。阿耆尼,乌陀迦。末啰鞞啰,建跢啰。阿迦啰,密唎 咄,怛敛部迦。地栗剌咤。毖唎瑟质迦。萨婆那俱啰。肆引伽弊,揭啰唎药叉,怛啰 刍。末啰视,吠帝钐,娑鞞钐。悉怛多钵怛啰。摩诃跋阇嚧瑟尼钐。摩诃般赖丈耆蓝 。夜波突陀,舍喻阇那。辫怛隶拏。毗陀耶,盘昙迦嚧弥。帝殊,盘昙迦嚧弥。般啰 毘陀,盘昙迦嚧弥。哆侄他。 唵。 阿那隶。 毗舍提。 鞞啰跋阇啰陀唎。 槃陀槃陀你。 跋阇啰谤尼泮。 虎 都嚧甕泮。 莎婆诃。

【全咒结束】 (唐天竺沙门般刺密谛等大师根据古梵文音译) ('唵’念【ān】, ' '念【xīn】) 乾隆大藏经实体经书影印本里 【虎 都卢雍】 这句咒, 在电脑上之前打不出这个生僻字, 所以写作【合+牛】, 实体经书里是一个字【 】, 乾隆大藏经实体经书影印本里楞严咒最后面这句咒是 (虎 都嚧甕泮), 是【甕】读音【yōng】, 不是【瓮】。 oOo

NGHI THỨC CẦU AN NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN Án lam toá ha. (3 lần) TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần) CÚNG HƯƠNG Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới,

_97_

Cúng dường nhứt thiết Phật, Tôn pháp chư Bồ Tát, Vô biên Thanh Văn chúng, Cập nhứt thiết Thánh Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật sự, Phổ huân chư chúng sanh, Giai phát Bồ Đề tâm, Viễn ly chư vọng nghiệp, Viên thành vô thượng đạo. KỲ NGUYỆN Tư thời đệ tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công đức, nguyện thập phương thường trú Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát, từ bi gia hộ Phật tử... Pháp danh... Phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, thường hoạch kiết tường, vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện: âm siêu dương thới, hải yến hà thanh, pháp giới chúng sanh, tề thành Phật đạo. TÁN PHẬT Pháp vương vô thượng tôn Tam giới vô luân thất Thiên nhơn chi đạo sư Tứ sanh chi từ phụ Ư nhứt niệm quy y Năng diệt tam kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán thán Ức kiếp mạc năng tận. QUÁN TƯỞNG Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như Đế Châu Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ. -Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy) -Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy) -Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy) CỬ TÁN

_98_

Chiên đàn hải ngạn, Lư nhiệt danh hương, Da du tử mẫu lưỡng vô ương, Hỏa nội đắc thanh lương, Chí tâm kim tương, Nhứt chú biến thập phương. Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) CHÚ ĐẠI BI Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần) Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại Bi tâm đà ra ni. Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da, bà rô yết đế thước bát ra da, Bồ Đề Tát Đỏa bà da, Ma ha Tát Đỏa bà da, Ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát toả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị Ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế ca ra đế, di hê rị, Ma ha Bồ Đề Tát Đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, Ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ Đề dạ Bồ Đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra Tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần) KHAI KINH KỆ Vô Thượng thậm thâm vi Diệu Pháp. Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ. Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa. NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT MA HA TÁT (3 LẦN).

DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM PHẨM “QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT PHỔ-MÔN” THỨ HAI MƯƠI LĂM

_99_

1. Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?” Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán-ThếÂm Bồ-Tát này một lòng xưng danh. Quán-Thế-Âm Bồ-Tát tức thì xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, vì do sức uy thần của Bồ-Tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu các thứ báu, vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm. 2. Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm BồTát, thì dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, người ấy liền được thoát khỏị. Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán-Thế-Âm Bo-Tát, thì các quỉ dữ đó còn không thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng : “Các Thiện-nam-tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thì sẽ được thoát khỏi oán tặc nầy”. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!” vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát sức oai thần to lớn như thế. 3. Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được ly dục.

_100_

Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa lòng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền được lìa ngu si. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ. Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phúc đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng gốc phước đức, mọi người đều kính mến. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần như thế. 4. Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thì phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằnghà-sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiệnnữ-nhơn đó có nhiều chăng? Vô-Tận-Ý thưa: “Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều”.Phật nói: “Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thì phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận. Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.” 5. Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Sức phương tiện đó như thế nào?” Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: “Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát thời Quán-ThếÂm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Duyên-giác đượcc độ thoát, liền hiện thân Duyên-giác mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh-văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh-văn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Phạm-vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm-vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đế-Thích được độ thoát, liền hiện thân ĐếThích mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp.

_101_

Người đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ-sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-sa-môn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tiểu-vương được độ thoát, liền hiện thân Tiểu-vương mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Trưởng-giả được độ thoát, liền hiện thân Trưởng-giả mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Cư-sĩ được độ thoát, liền hiện thân Cư-sĩ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tể-quan được độ thoát, liền hiện thân Tểquan mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bàla-môn mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-badi mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-quan, Bàla-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn được độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp. Người đáng dùng thân Chấp-Kim-Cang thần được độ thoát, liền hiện thân Chấp-Kim-Cang thần mà vì đó nói pháp. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. Quán-Thế-Âm đại Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị “Thí-vô-úy”. 6. Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Con nay phải cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát”. Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lạng vàng, đem trao cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng : “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này”. Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-TậnÝ lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”.

_102_

Bấy giờ Phật bảo Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: “Ông nên thương Vô-TậnÝ Bồ-Tát này và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Atu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó. Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn v.v… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa-Bảo. Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà”. Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng: 7. Thế-Tôn đủ tướng tốt! Con nay lại hỏi kia Phật tử nhân duyên gì? Tên là Quán-Thế-Âm? Đấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô-Tận-Ý: Ông nghe hạnh Quán-Âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều nghìn đức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta vì ông lược nói Nghe tên cùng thấy thân Tâm niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các cõi. Giả sử sanh lòng hại Xô rớt hầm lửa lớn Do sức niệm Quán-Âm Hầm lửa biến thành ao. Hoặc trôi dạt biển lớn Các nạn quỉ, cá, rồng Do sức niệm Quán-Âm Sóng mòi chẳng chìm được. Hoặc ở chót Tu-di Bị người xô rớt xuống Do sức niệm Quán-Âm Như mặt nhật treo không Hoặc bị người dữ rượt

_103_

Rớt xuống núi Kim-Cang Do sức niệm Quán-Âm Chẳng tổn đến mảy lông. Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại Do sức niệm Quán-Âm Đều liền sanh lòng lành. Hoặc bị khổ nạn vua Khi hành hình sắp chết Do sức niệm Quán-Âm Dao liền gãy từng đoạn. Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chân bị gông cùm Do sức niệm Quán-Âm Tháo rã được giải thoát Nguyền rủa các thuốc độc Muốn hại đến thân đó Do sức niệm Quán-Âm Trở hại nơi bổn-nhân.(6) Hoặc gặp La-sát dữ Rồng độc các loài quỉ Do sức niệm Quán-Âm Liền đều không dám hại. Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quán-Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng. Rắn độc cùng bò cạp Hơi độc khói lửa đốt Do sức niệm Quán-Âm Theo tiếng tự bỏ đi. Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá (7) , xối mưa lớn Do sức niệm Quán-Âm Liền được tiêu tan cả. Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán-Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian Đầy đủ sức thần thông

_104_

Rộng tu trí phương tiện Các cõi nước mười phương Không cõi nào chẳng hiện. Các loài trong đường dữ: Địa-ngục, quỉ, súc sanh Sanh, già, bịnh, chết khổ Lần đều khiến dứt hết. Chơn-quán thanh tịnh quán Trí-huệ quán rộng lớn Bi-quán và từ-quán, Thường nguyện thường chiêm ngưỡng Sáng thanh tịnh không nhơ Tuệ nhật (8) phá các tối Hay phục tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian. Lòng bi răn như sấm Ý tứ diệu dường mây (9) Xối mưa pháp cam lồ Dứt trừ lửa phiền não (10) Cãi kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt Do sức niệm Quán-Âm Cừu oán đều lui tan. Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm Phạm-âm, Hải-triều-âm Tiếng hơn thế gian kia, Cho nên thường phải niệm. Niệm niệm chớ sanh nghi Quán Âm bậc tịnh thánh Nơi khổ não nạn chết Hay vì làm nương cậy. Đủ tất cả công đức Mắt lành trông chúng sanh Biển phước lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ. 8.- Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thì phải biết công đức người đó chẳng ít”.

_105_

Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-đẳng vô-thượng chánh-đẳng chánhgiác. DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH: QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN PHẨM CHÔN NGÔN VIẾT: Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần) LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN: Án, ma ni bát di hồng. (108 lần) PHỔ MÔN TÁN: Phổ Môn thị hiện, Cứu khổ tầm thinh, Từ Bi thuyết pháp độ mê tân, Phó cảm ứng tuỳ hình, Tứ hải thanh ninh, Bát nạn vĩnh vô xâm.

THẬP NHỊ NGUYỆN 1. Nam mô hiệu Viên Thông, danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy) 2. Nam mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Nam hải nguyện. (1 lạy) 3. Nam mô trụ Ta Bà, U Minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. (1 lạy) 4. Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy) 5. Nam mô thanh tịnh bình, thuỳ dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lộ sái tâm nguyện. (1 lạy) 6. Nam mô Đại Từ bi, năng hỉ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy) 7. Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (1 lạy) 8. Nam mô vọng Nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, Già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy) 9. Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện. (1 lạy) 10. Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy) 11. Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện. (1 lạy) 12. Nam mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy) MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH

_106_

Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, Diệc phục như thị. Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý, vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh. Diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão, tử. Diệc vô lão, tử tận: vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố. Bồ Đề Tát Đỏa y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật, y Bát Nhã Ba La Mật Đa cố, đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Đa chú, tức thuyết chú viết: Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la Tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha. VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHƠN NGÔN Nam mô A Di Đa Bà Dạ, Đa Tha Dà Đa Dạ. Đa Điệt Dạ Tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ. A di rị đa tỳ ca lan đế. A di rị đa tỳ ca lan đa. Già di nị già già na. Chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần)

CỬ TÁN Quán Âm Đại Sĩ, Phổ hiệu Viên Thông, Thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm, Khổ hải phiếm từ phong, Phổ tế tâm dung, Sát sát hiện vô cùng. Nam mô Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma ha tát. (3 lần) TÁN PHẬT A Di Đà Phật thân kim sắc Tướng Hảo quang minh vô đẳng luân Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di Hám mục trừng thanh tứ đại hải Quang trung hoá Phật vô số ức Hoá Bồ Tát chúng diệc vô biên Tứ Thập Bát nguyện độ chúng sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. Nam mô A Di Đà Phật. (niệm nhiều ít tuỳ ý) Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần) Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)

_107_

Thập phương Tam Thế Phật, A Di Đà đệ nhứt, Cửu phẩm độ chúng sanh, Oai đức vô cùng cực, Ngã kim đại quy y, Sám hối tam nghiệp tội, Phàm hữu chư phước thiện, Chí tâm dụng hồi hướng, Nguyện đồng niệm Phật nhơn, Cảm ứng tuỳ thời hiện, Lâm chung Tây Phương cảnh, Phân minh tại mục tiền, Kiến văn giai tinh tấn, Đồng sanh Cực Lạc quốc, Kiến Phật liễu sanh tử, Như Phật độ nhứt thiết, Vô biên phiền não đoạn, Vô lượng Pháp môn tu, Thệ nguyện độ chúng sanh, Tổng giai thành Phật đạo. Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng, Hư không hữu tận, ngã nguyện vô cùng, Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí. HỒI HƯỚNG Cầu an công đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi hướng. Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh, Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, Nguyện đắc trí huệ, chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ Tát đạo, Nguyện sanh Tây Phương Tịnh Độ trung, Cửu phẩm Liên Hoa vi phụ mẫu. Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ, Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhứt thiết,

_108_

Ngã đẳng dữ chúng sanh, Giai cọng thành Phật đạo. PHỤC NGUYỆN Hiện tiền chư Phật tử đẳng, thân xu khương thới, mạng vị bình an, tứ thời vô tiêm tiểu chi tai, bát tiết hữu trùng lai chi khánh. Phổ nguyện: Gia đình hưng thạnh, quyến thuộc tăng phước hoàn duyên, pháp giới nhơn thiên, tề thành Phật đạo. Nam mô A Di Đà Phật. TAM QUY Y Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy) Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy) Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy) ********

Người phá giới lúc lâm chung muốn niệm Phật nhưng lại niệm không ra! (Tế Công Hoạt Phật từ huấn). Khi nghiệp quả đã chín muồi, nghiệp báo hễ đã hiện ra trước mặt thì chẳng cách nào miễn khổ rồi, cũng giống như một người đã bị oan gia tóm được rồi thì không dễ dàng gì mà thoát lìa được. Trước khi chưa bị tóm được, con vẫn còn có thể trốn thoát, vậy nên các con hãy nhân lúc nghiệp chướng vẫn còn chưa hiển hiện trước mắt thì hãy thật tốt mà tinh tấn niệm Phật tiêu trừ nghiệp chướng, và cho dẫu nghiệp chướng hiển hiện trước mắt thì cũng phải tuỳ duyên tiêu nghiệp cũ, chớ có lại gây vạ mới, nhất tâm nhất ý cầu sanh thế giới Cực Lạc là việc quan trọng. Mọi người niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương là việc rất bình thường, thế nhưng cũng có những người lúc lâm chung nghiệp chướng hiển hiện ra trước mắt, chớ đâu phải trăm phần trăm thân thể chẳng có bệnh khổ. Có một Tỳ kheo nọ, bởi vì lúc xuất gia chẳng gặp được thiện tri thức, thụ giới rồi lại quay về ngôi miếu xuất gia mà mọi hành động đều y như người thế tục, đều đã phạm vào rất nhiều giới. Cậu ta biết đã phạm giới quá nhiều, nghiệp _109_

chướng quá nặng, cứ như thế thì không ổn. Thế nhưng bởi vì thân thể sớm đã yếu kém suy nhược, chẳng cách nào ứng phó với sinh hoạt ăn ở của đại chúng, ở chung với mọi người rất miễn cưỡng. Niệm Phật tuy tinh tấn, biết rằng phải sám hối, thế nhưng đã tạo nghiệp quá nặng rồi, lúc lâm chung nghiệp chướng hiển hiện trước mắt, muốn niệm Phật nhưng chẳng cách nào niệm, mọi người bèn trợ niệm cho cậu ta, thế nhưng cậu ta lại cứ gào lên bảo rằng không thể niệm không thể niệm, hễ trợ niệm thì đầu của cậu ta lại đau, con xem nghiệp chướng đến mức độ như thế ! Đấy là tình hình nghiệp quả hiển hiện trước mắt, quá ư là đáng sợ!

_110_

Mẹ Độ – Mẫu Sanh 無上虛空地母玄化養身保命慈尊大慈尊 K D

金 I M 母 M 元Ẫ U 君

瑤 池 金 T R 母 Ì I Ê U

N Đ

G U Y Ê N

M

Q

Ẫ U

Ị A

U Â N _111_

Hồng hoang vị tịch, “đạo” hàm anh, Vô số “tinh cầu”, khí hóa thành, “Giáp tí” nan kê, thiên vạn ức, Hư không ẩn ngã, bất tri “danh”.

Giữa thuở hỗn mang đạo sáng lòa, Tinh cầu khí hóa khắp gần xa, Chu kì xoay chuyển muôn ngàn ức, Ẩn bóng hư không, chẳng thấy ta.

Hư không cửu uẩn khí huyền huyền, Vị phán hồng hoang, hữu ngã tiên, Nhất điểm Chân linh, trường bất diệt, Sinh lai “Phật Thánh dữ Thần Tiên”.

Muôn vẻ hư không, khí mịt mùng, Hỗn mang trước đó, có ta trong, Chân linh một điểm, trường tồn mãi, Sinh ra Phật Thánh, cả Thần Tiên.

H Hạạoo TThhiiêênn N Nggọọcc H Hooàànngg TThhư ượợnngg đđếế

昊 天玉 皇上 帝 Tây Vương Mẫu: 西王母: 서 왕 모: せ い お う ぼ: Diêu Trì Kim Mẫu: 瑤 池 金 母: Tây Vương Kim Mẫu: 西 王 金 母: Vương Mẫu Nương Nương: 王 母 娘 娘: Kim Mẫu Nguyên Quân: 金 母 元 君: Thượng Thánh Bạch Ngọc Quy Thai Cửu Linh Thái Chân Vô Cực Thánh Mẫu Dao Trì Đại Thánh Tây Vương Kim Mẫu Vô Thượng Thanh Linh Nguyên Quân Thống Ngự Quần Tiên Đại Thiên Tôn: 上 聖 白 玉 龟 台 九 灵 太 真 無 極 聖 母 瑤 池 大 聖 西 王 金 母 無 上 清 靈 元 君 統 御 群 仙 大 天 尊.

_112_

_113_